Tiên thành lữ thứ

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

I.

Bán trản cô đăng khách mộng tàn,

Bách niên tâm sự thoại vưu nan.

Lão thiên bất dữ nhân phương tiện,

Mạc mạc minh minh nhất thái khoan. (1)

II.

Bi hoan ly hợp hướng thùy trần?

Lạc lạc phong trần vạn lý thân.

Vị bốc minh niên hà xứ trú?

Ẩm băng (2) duy đối kính trung nhân.

Dịch nghĩa: Ở nơi trọ thành Hà Tiên

I.

Nửa ngọn đèn lẻ loi, giấc mơ nơi khách vừa tàn,

Câu tâm sự trăm năm càng khó nói ra.

Trời già không giúp mình phương tiện,

Mịt mịt, mù mù, một bầu trời đất bao la!

II.

Buồn vui chia hợp, biết chuyện trò cùng ai?

Gí bụi dạn dày chiếc thân muôn dặm.

Chưa biết rồi năm tới ta ở vào đâu?

Uống băng, chỉ một mình mình biết với bóng mình trong gương mà thôi.

Chú thích

(1): Thái khoan: cõi mênh mông cực rộng, nghĩa là vũ trụ.

(2): Ẩm băng: uống tuyết. Ý nói cố bình tĩnh để nén sự nôn nóng hay sự căm giận trong người.

Hoài Anh dịch thơ: 

I.

Nửa ngọn đèn côi mộng khách tàn,

Trăm năm tâm sự khó đem bàn.

Trời già chẳng giúp mình phương tiện,

Mịt mịt mờ mờ cõi thế gian.

II.

Buồn vui tan hợp ngỏ cùng ai?

Gió bụi vùi thân khách lạc loài.

Chẳng biết sang năm đâu trú ngụ?

Uống băng, chỉ bóng với mình thôi.

Nguyễn Văn Bách dịch thơ

I.

Nửa ngọn đèn tàn một khách vơi,

Nỗi lòng những khó nói nên lời.

Hóa công đã chẳng vì ta xót,

Mờ mịt về đâu giữa đất trời.

II.

Buồn vui tan hợp ngỏ ai tường,

Muông dặm dạn dày thân gió sương.

Chẳng biết sang năm đâu tới nhỉ,

Thấu lòng chỉ có khách trong gương.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!