Kỳ thập

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Sinh bình hà sở lạc,

Ẩm tửu độc Ly Tao.

Sở địa phong ba hiểm,

Vu sơn mộng mị lao.

Vạn lý giang hồ viễn,

Quân thần nhất niệm cao.

Khứ quốc ưu thiên vấn (1),

Mưu thân quý xuyết tao.

Dịch nghĩa: Bài mười

Sinh bình lấy gì làm vui,

Uống rượu đọc Ly Tao.

Đất Sở phong ba nguy hiểm,

Núi Vu mộng mị uổng công.

Ngàn dặm giang hồ xa,

Niềm quân thần vẫn trọng.

Xa nước buồn lo hỏi trời,

Mưu cho thân mình thẹn húp hèm rượu.

Chú thích

(1): Trong tập Ly Tao của Khuất Nguyên có bài Thiên vấn (Hỏi trời).

Hoài Anh dịch thơ

Sinh bình vui thú những gì?

Chỉ ham uống rượu đọc Ly Tao mà!

Đất Sở nguy hiểm phong ba,

Non Vu mộng mị rốt là uổng công.

Giang hồ xa thẳm ngàn trùng,

Niềm quân thần giữ trong lòng dám sai.

Xa nước buồn lo hỏi trời,

Mưu cho mình, thẹn nhấp môi bã hèm.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!