Kỳ thập nhất

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Ái nguyệt vị quan môn,

Lân hoa biệt viễn thôn.

Hải sầu ngư hữu lệ,

Sơn hận điểu năng ngôn.

Bất tận Trang Chu (1) mộng,

Vô biên Thục đế (2) hồn.

Vị thùy xuân tịch mịch,

Ức nhĩ dạ ôn tồn.

Dịch nghĩa: Bài mười một

Yêu trăng chưa đóng cửa,

Thương hoa biệt thôn xa.

Biển sầu cá có lệ,

Núi hận chim biết nói.

Bất tận, mộng Trang Chu,

Vô biên, hồn Thục đế.

Vì ai mà xuân tịch mịch,

Nhớ nàng trong đêm ôn tồn.

Chú thích

(1): Trang Chu tức Trang Tử (369-286 TCN) là người có tài học rộng, vang danh thiên hạ.

(2): Thục đế: vua nước Thục tên là Đỗ Vũ, theo truyền thuyết ông mất nước nên khi chết hồn hóa làm chim quyên, ở ta hay gọi là con cuốc, con quốc.

Hoài Anh dịch thơ

Yêu trăng cửa chửa cài then,

Thương hoa đành biệt thôn miền xa khơi.

Biển sầu cá có lệ rơi,

Núi hờn chim biết cất lời nói năng.

Bất tận là mộng thầy Trang,

Vô biên, hồn Thục đế loang máu hờn.

Vì ai quạnh quẽ xuân buồn,

Nhớ nàng thủ thỉ ôn tồn trong đêm.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!