Hồ Quảng quy chu đồ trung tác tam thập vận (tuyển ngũ thủ)

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

I.

Tinh sương (1) kỷ độ khách đồ trung,

Thiều đệ quy chu bạc vãng phong.

Tà ngạn đoản bồng sơ vũ thấp,

Hàn nhai viễn thụ đạm yên lung.

Cẩm lân điếu bãi ngư ky tịch,

Bạch thạch ca tàn điểu đạo thông.

Kỷ xứ độ đầu nhân khứ hậu,

Sơn thành nguyệt lạc Sở giang không.

II.

Tinh kỳ ảnh lạc động giao long, (2)

Cổ trạo nhàn qua Thạch cổ đông.

Hồng nhiễm giang biên phong diệp lão,

Lục đà nhai thượng thạch đài nùng.

Thập niên hồ hải bình bồng tích,

Nhất phiến sơn hà Sở Việt tung.

Khách huống vô liêu thi tứ khổ,

Cưỡng tương bôi tửu hác tâm hung.

IV.

Vân hoành hồi nhạn tịch dương trì,

Thạch ngạn thuyền đầu thụ ảnh di.

Nhị tải nhất văn tân quốc hiệu,

Ngũ hồ lưỡng độ cố hương tư.

Cô bồng đoản trạo Thương giang ngọa,

Tế vũ tàn phong họa giác xuy.

Quá khách mạc tòng ngư phủ vấn,

Mịch La (3) tự cổ Sở nhân bi.

V.

Tiền đồ giang cảnh thượng hi vi,

Quế tương tùng chu cố quốc quy.

Thử nhật động tri tha nhật tĩnh,

Kim niên thị giác tích niên phi. (4)

Nguyệt hàn sơn các hoa âm sấu,

Vũ thấp thiên nhai thảo sắc phì.

Mộng hữu trượng nhân lai vấn ngã,

Như hà nhĩ bất tức tâm cơ.

VI.

Nhất biệt Yên kinh (5) viễn tệ lư,

Kỷ hồi nam vọng ức cầm thư.

Tâm thanh Tương thủy trường thiên cộng,

Cốt sấu Hành sơn thái cổ như.

Khiết mạt tuyết đê lưu nguyệt bạch,

Mật lung yên thụ bổ thu sơ.

Nhàn khan bất tận phong quang hảo,

Lai hứng tiên tra lạc hữu dư.

Dịch nghĩa: Từ Hồ Quảng thuyền về dọc đường làm ba mươi bài (chọn năm bài)

I.

Một năm mấy phen trên đường đất khách,

Xa xôi thuyền về đậu gió chiều.

Bờ chếch thuyền nhỏ mưa thưa thấm ướt,

Núi lạnh cây xa khói nhạt phủ.

Câu cá xong, hòn đá ngồi câu vắng vẻ,

Khúc ca “Đá trắng” tàn, đường chim thông.

Mấy chỗ bến đò sau khi người đi hết,

Thành núi trăng lặn, sông Sở quạnh hiu.

II.

Bóng cờ in xuống nước làm kinh động giao long,

Khua chèo nhàn qua mé đông núi Thạch cổ.

Hồng nhuộm bên sông lá phong già đi,

Biếc kéo dài trên núi rêu đá rậm.

Mười năm hồ biển dấu bèo trôi nổi,

Một mảnh núi sông dấu chân Sở Việt.

Cảnh đất khách buồn tênh, khổ công nghĩ tứ thơ,

Gượng mượn chén rượu mở rộng cõi lòng.

IV.

Mây ngang nhạn về ánh chiều tà chầm chậm,

Bờ đá đầu thuyền bóng cây đời chếch.

Hai năm một lần nghe quốc hiệu mới,

Năm hồ hai phen nhớ quê cũ.

Thuyền con chèo ngắn trên sông Thương,

Mưa nhỏ gió tàn, tiếng kèn thổi.

Khách qua đường đừng hỏi ông chài,

Sông Mịch La từ xưa mang nỗi bi ai của người nước Sở.

V.

Cảnh sông phía trước còn lờ mờ,

Thuyền bằng gỗ thông, mái chèo bằng gỗ quế, về nước cũ.

Ngày nay động, biết ngày khác tĩnh,

Năm nay là phải, biết năm trước là sai.

Trăng lạnh gác núi, bóng hoa gầy.

Mưa ướt chân trời sắc cỏ mập (tươi nõn).

Mộng thấy có người già cả đến hỏi ta,

Tại sao ngươi không chịu dứt tâm cơ.

VI.

Một từ biệt Yên kinh, xa ngôi nhà ta,

Mấy lần nhìn về phương Nam nhớ đàn, sách.

Tâm như nước sông Tương cùng một sắc với trời,

Xương gầy như núi Hành sơn thời thái cổ.

Trong sạch màu tuyết trên đê còn lưu lại sắc trắng cho trăng,

Cây phủ khói rậm bù đắp cho vẻ tiêu sơ của mùa thu.

Nhàn ngắm nhìn không dứt phong quang tốt đẹp,

Hứng đến bè tiên niềm vui dồi dào.

Chú thích

(1): Tinh sương: Sao và sương. Một năm trải qua một vòng sao và một vòng sương xuống nên gọi là tinh sương.

(2): Câu này ý nói nhân thấy bóng cờ in xuống mặt nước và tưởng chừng có đàn thuồng luồng (giao long) đang quẫy lộn.

(3): Mịch La: con sông mà Khuất Nguyên nhảy xuống nước tự trầm.

(4): Do câu trong Quy khứ lai từ của Đào Tiềm: “Giác kim thị nhi tạc phi” (Đã biết việc hôm qua là đúng mà việc hôm nay là sai).

(5): Yên kinh tức Bắc Kinh ngày nay.

Hoài Anh dịch thơ

I.

Mấy phen đường khách ruổi rong,

Thuyền về Nam ghé đậu trong gió chiều.

Mui bồng thưa hạt mưa gieo,

Cây xa, khói cũng mờ theo cây mờ.

Cá câu xong, hòn đá trơ,

Khúc ca tàn, lối chim giờ đã thông.

Người đi bỏ bến nằm không,

Trăng rơi thành núi quanh dòng Sở giang.

II.

Bóng tinh kỳ động giao long,

Chèo qua Thạch cổ mé đông tà tà.

Sắc hồng nhuộm lá phong già,

Đá rêu trên núi mượt mà màu xanh.

Mười năm hồ hải bồng bềnh,

Dấu chân Việt Sở in hình núi sông.

Nhạt suông thơ nghĩ khổ công,

Mượn chén rượu mở rộng lòng thênh thang.

IV.

Ngày chầy, nhạn rẽ đường mây,

Bóng cây chênh chếch lắt lay đầu thuyền.

Quốc hiệu mới vừa nghe tên,

Nớ quê hương đã hai niên cách vời.

Sông Thương thuyền nhỏ chèo lơi,

Gió tàn mưa nhỏ, chơi vơi tiếng kèn.

Hỏi chi ngư phủ thêm phiền,

Mịch La mối hận Khuất Nguyên còn dài.

V.

Cảnh phía trước sáng mờ mờ,

Thuyền về nước cũ, tâm tư chứa đầy.

Tĩnh ôm nọ, động hôm nay,

Năm nay phải, biết rằng ngày trước sai.

Trăng ngắm gác, bóng hoa gầy,

Chân trời mưa ướt, cỏ rầy mập ra.

Mộng thấy người đến hỏi ta:

“Tâm cơ sao chẳng dứt mà cứ đeo?”

VI.

Biệt Yên kinh, xa mái nhà,

Nhìn về Nam nhớ thiết tha sách đàn.

Tâm hòa trời, nước Tương giang,

Xương gầy như thuở hỗn mang núi Hành.

Đê tuyết trắng dành trăng thanh,

Thu tiêu sơ, khói rậm cành bù thêm.

Phong quang tốt đẹp nhìn xem,

Bè sao hứng đến, rộn niềm vui say.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!