Đồng Trần Tuấn, Hà Bính Xích Hạ chu trung tạp vịnh

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Phiêu bồng (1), đoạn ngạnh (2) cộng du du,

Không đới nam quan (3) vạn lý sầu.

Tráng sĩ tự năng thù quốc trái,

Trượng phu thùy khẳng vị thân mưu.

Phiến tâm vị đạt môn trùng toản,

Nhất sự vô thành lệ ấm lưu.

Cục tích tiền đồ thiên địa trách,

Đế hôn đồ vọng bão kỳ du.

Dịch nghĩa: Cùng hai bạn Trần Tuấn, Hà Bình chơi thuyền trên sông xích hạ, có bài tạp vịnh

Gió thổi cỏ bồng, nước trôi cành gãy, man mác thay cái cảnh phiêu lưu,

Trùm đầu cái mũ phương nam, mà vẫn đeo sầu ở nơi quan san muôn dặm.

Tráng sĩ bền gan cần phải đền bồi nợ nước,

Trượng phu lập chí nào nghĩ đến việc riêng mình.

Cửa vua mấy lần khóa thâm nghiêm, tấm lòng thành chưa hay thấu tới.

Nước mắt biết bao phen sùi sụt, một việc gì cũng chẳng làm xong.

Cúi mình chùn bước trên đường đi, trời đất sao mà chật hẹp,

Đầy dạ biết bao mư kế, nhưng chỉ biết để mắt trông về nơi đế khuyết, xiết nỗi mong chờ.

Chú thích

(1): Phiêu bồng: trích trong câu  Phong tống phiêu bồng, nghĩa là gió thổi cỏ tranh, vì nhẹ thổi đi rất xa.

(2): Đoạn ngạnh: Chiến quốc sách chép “Cành đào gạy bị nước sông trôi đi, không biết trôi dạt đến đâu là chừng.

(3): Nam quan: (lối mũ phương nam) tức là nước Sở thời chiến quốc.

Hoài Anh dịch thơ

Cành đào gãy, cỏ bồng trôi,

Tha hương, quan tái xa xôi những sầu.

Luôn vì nợ nước lo âu,

Trượng phu lập chí nghĩ đâu riêng mình.

Cửa vua chưa thấu lòng thành,

Chẳng tròn một việc, lệ đành thầm rơi.

Làm sao hẹp thế, đất trời?

Mong chờ, mắt chỉ ngóng nơi đế đình.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!