Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hàm Đan (2) thành ngoại thạch kiều biên,
Nhất chẩm càn khôn mộng giác tiên.
Đoản hỏa năng tiêu trường phú quý,
Hồng trần bất nhiễm bạch vân yên.
Hoàng lương (3) vị thục cơ tuy diệu,
Thiết địch vô thanh đạo cánh huyền.
Ngã diệc Lư sinh vị dục thụy,
Lã ông hà sư dĩ mang nhiên.
Dịch nghĩa: Yết đền tiên Lã Đồng Tân
Bên cầu đá ngoài thành Hàm Đan,
Một gối càn khôn mộng tỉnh là tiên.
Ngọc lửa ngắn có thể làm tiêu tan phú quý dài,
Bụi hồng không nhuốm được khói mây trắng.
Kê vàng chưa chín cơ duy diệu,
Ống sáo sắt không tiếng đạo càng huyền.
Ta cũng là một Lư sinh chưa muốn ngủ,
Ông Lã việc gì phải hoang mang không hiểu.
Chú thích
(1): Lã Đồng Tân: một trong Bát Tiên trong văn hóa Trung Quốc xưa.
(2): Hàm Đan: kinh đô của nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc xưa.
(3): Hoàng lương: giấc mộng đỗ đạt vinh hiển.
Hoài Anh dịch thơ
Bên cầu đá thành Hàm Đan,
Tiên tỉnh mộng: một gối càn khôn đây.
Lửa ngắn tiêu phú quý dài,
Bụi hồng nhuốm nổi khói mây bao giờ.
Kê vàng chưa chín: diệu cơ,
Sáo sắt không tiếng: chân như đạo huyền.
Ta chưa muốn ngủ, Lã tiên,
Xin ông chớ có ngạc nhiên làm gì?
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.