Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Mãn thiên sương lạc, nhạn bi minh,
Bắc khứ Nam lai tiếu thử sinh.
Bán dạ cô chu thiên lý khách,
Ngũ dương ích hữu bách niên tình.
Vị năng khảng khái thù bang quốc,
Yên cảm trù trừ luyến đệ huynh.
Mỗi ức chi anh (1) thanh khí vị,
Kỷ hồi hương mộng nhiễu Tiên thành.
Dịch nghĩa: Từ biệt các bạn ở Hà Tiên thành
Đầy trời sương sa lác đác, tiếng nhạn kêu sầu,
Phương Bắc, phương Nam, cười đời sống nay đây mai đó.
Khách xa ngàn dặm, chiếc thuyền con lặn lội giữa ban đêm,
Tình nặng trăm năm, người bạn tốt hẹn hò trong năm biển.
Tấm lòng khảng khái, chưa đền nợ nước, luống những băn khoăn,
Đâu dám ngập ngừng mà quyến luyến anh em, thành ra chậm trễ.
Làm cho ta tưởng nhớ đóa chi lan khí vị thanh cao,
Đòi phen làn gió thơm bay, quan quẩn chỗ Tiên thành biết bao hồn mộng.
Chú thích
(1): Chi anh: Cũng như chi lan (cỏ chi và hoa lan). Gia ngữ có câu: “Cùng người lành ở, ví như vào cái nhà có cây chi cây lan, lâu dần không thấy mùi thơm nữa, tức là đã đồng hóa với mùi thơm của chi lan rồi”.
Hoài Anh dịch thơ
Nhạn kêu thảm, sương rơi đầy,
Bắc Nam rày đó mai đây, cười mình.
Dặm ngàn, thuyền lẻ nổi nênh,
Cùng người năm biển, hẹn tình trăm năm.
Chưa đến nợ nước, băn khoăn,
Đâu vì quyến luyến tình thân, ngập ngừng.
Chi lan hương vị thơm lừng,
Mộng hồn vấn vít mấy từng thành Tiên.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.