Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Địa đa ly biệt thụ,
Nhân trọng đoạn trường thi.
Lạp chúc lưu sầu lệ,
Xuân tàm thổ hận ti. (1)
Hoành không mê sở vọng,
Viễn thủy ký tương tư.
Bất tận thương tâm xứ,
Quế lâm nhật mộ thì.
Dịch nghĩa: Bài ba
Đất nhiều cây ly biệt,
Người trọng thơ đoạn trường.
Ngọn nến chảy lệ sầu,
Tằm xuân nhả tơ hận.
Nhìn ngang không thấy mờ mịt,
Nước xa gửi niềm tương tư.
Chỗ đau lòng vô hạn,
Là lúc Quế Lâm trời tối.
Chú thích
(1): Do hai câu thơ trích trong bài Vô đề của Lý Thương Ẩn.
Xuân tàm đáo tử ti phương tận,
Lạp chúc thành hôi lệ thuỷ can
(Nghĩa là:
Tằm xuân đến chết tơ mới hết,
Nến thành tro lệ mới khô.)
Hoài Anh dịch thơ
Đất có nhiều cây biệt ly,
Con người trọng nhất bài thi đoạn trường.
Nến hồng lệ rỏ sầu thương,
Tằm xuân tơ nhả còn vương hận lòng.
Nhìn ngang mờ mịt bầu không,
Niềm tương tư gửi theo dòng nước xa.
Nơi thương tâm nhất của ta,
Là Quế Lâm lúc trời tà nhá nhem.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.