Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Thiểu sự phùng kim nhật,
Tiêu nhiên đối cổ cầm.
Lân thời tri hữu tháo, (1)
Thức thú ái vong âm.
Lưu thủy quy thanh vận,
Cao sơn ký viễn tâm, (2)
Cầu hoàng hưu tái cổ,
Vô hạn bạch đầu ngâm. (3)
Dịch nghĩa: Đối đàn
Gặp hôm nay ít việc,
Thung dung đối đàn cầm cổ.
Khi thương biết có tiết tháo của người gửi trong khúc đàn,
Thưởng thức thú vị, thích quên cả âm đàn.
Nước chảy quy vào trong thanh vận,
Núi cao gửi tấm lòng sâu xa.
Đừng gảy khúc Phượng cầu hoàng nữa,
(Đời đã có) vô hạn khúc Bạch đầu ngâm.
Chú thích
(1): Chữ Tháo vừa có nghĩa là cái chí của mình giữ vững (tiết tháo) vừa có nghĩa là khúc đàn. Người xưa có bài Cầm tháo.
(2): Chung Tử Kỷ nghe Bá Nha đàn, ý nói kẻ tri âm nghe tiếng đàn có thể hiểu được cái chí của người dân.
(3): Tư Mã Tương Như gảy khúc đàn Phượng cầu hoàng quyến rũ được Trác Văn Quân bỏ nhà đi theo mình. Về sau Tương Như lại định lấy người con gái đất Mậu Lăng làm vợ. Văn Quân làm bài Bạch đầu ngâm trách chồng bội bạc. Tương Như hối hận bèn thôi việc lấy vợ khác.
Hoài Anh dịch thơ
Hôm nay công việc rảnh rang,
Ung dung ngồi đối chiếc đàn cầm xưa.
Thương chí người gửi tiếng tơ,
Thưởng thú diệu bắt đầu từ quên âm.
Nước chảy thanh vận bổng trầm,
Núi cao tâm gửi đến tầm xa khơi.
Khúc Cầu hoàng đừng gảy chơi,
Bạch đầu ngâm đã trên đời chan chan.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.