Trung hưng Lê phủ Tả quân,
Thứ hai kế tiếp, lượt chừng kể ra.
Vỗ an Nam Định thành ta,
Dân cư lạc nghiệp thái hòa ca âu. (420)
Sang năm Ất dậu thu đầu,
Dấy lên quân ngụy tại châu Khánh Hòa.
Xưng rằng Hoài thị Tam Ca,
Nghinh ngang mội cõi Khánh Hòa liệt hoanh.
Lại thêm Tống Trấm, Ba Hoành,
Biên thùy hùng cứ oai danh một đoàn.
Người đồn dậy tiếng đã vang,
Biện kinh thấu đến Cao hoàng đều hay.
Bèn sai Nguyễn Điển ngày rày,
Binh hùm kéo tới trừ thay quân loàn. (430)
Kéo vào đồn lũy đóng an,
Tam Ca nghe quả mở đàng cự đương.
Nguyễn Điển thiệt cũng cang cường,
Sức thần giao chiến tranh đương thư hùng.
Loạn vào chiến địa quân trung,
Tử sanh chi sá anh hùng phải trang.
Hoài vương thấy chẳng kinh hoàng,
Triển oai thần võ chém chàng vong xu.
Nguyễn Điển thất thế chạy mù,
Khánh Hòa dấy loạn quân du thảy đều. (440)
Nguyễn Điển hổ mặt buồn hiu,
Ngàn năm ngại nỗi tiêng biêu xa gần.
Nhóm quân tại mé Giang Tân,
Ước hơn trăm đứa mưu thần ít trang.
Có tên Phan Hóa mới hàng,
Mưu mô nhả tháo, phải trang anh hùng.
Vào nơi tả phụ quân trung,
Hiệp đoàn Nguyễn Điển đánh cùng Tam Ca.
Mưu cao chàng mới thiết ra,
Đồn binh biên cảnh, Khánh Hòa để êm. (450)
Chiến công có chiếu hẹn thêm,
Tháng năm ngày vọng thì kềm cự nhau.
Nguyễn Điển binh chiến cùng nhau,
Tam Ca Nguyễn Lữ cửa sau đánh dồn.
Rượt chàng tới Khánh Bình thôn,
Phan Hóa vùng dậy đánh dồn trở ra.
Phan Hóa đánh với Tam Ca,
Kích đâm, khiên chém tợ là long phi.
Nguyễn Lữ sút thế chạy đi,
Điển bèn truyền lịnh tức thì phủ vây. (460)
Phan Hóa bày kế bộn bề,
Lương khê tên tộc bèn phê chiếu truyền.
Giả đò phản quốc trào đình,
Quyết đam nhơn mã hưng binh hiệp đoàn.
Mật thơ Nguyễn Lữ trao sang,
Hờ cơ y cũng tin chàng sự ngay.
Truyền đam diên yết đãi rày,
Lương Khê dòm biết đã say cái từ.
Huỳnh hôn vừa lúc canh tư,
Lương Khê, Nguyễn Điễn bây chừ lén vô. (470)
Tam Ca nằm dựa phòng cô,
Bị Khê một búa hồn vô hòm liền.
Quân tràng ó dậy huyên thiên,
Ba Hoành cự chiến thay quyền chống ngăn.
Đánh Khê một trận dữ dằng,
Khê bèn cự chiến đỡ ngang bốn bề.
Thương thay cho tướng Lương Khê,
Khí thần dây phút chôn về linh tiêu.
Trơ trơ một đóa thây biêu,
Ngàn thi danh rạng Nam triều sửa xanh. (480)
Dòng quyên đôi giọt sầu thành,
Miễu đường tạc để biêu danh trên đời.
Ba Hoành truyền lịnh các nơi,
Dựng cờ khuấy nước dậy trời oai vang.
Tống Trấm lúc nọ tràng ngang,
Phủ vây Nguyễn Điển vào đàng quân trung.
Tống Trấm sức gã gian hùng,
Đánh chàng Nguyễn Điển khôn cùng tài năng.
Nguyễn Điển không kịp đỡ ngăn,
Bị chàng Tống Trấm một lằng kiếm thương. (490)
Rủi thay giữa chốn chiến trường,
Một lời từ giã thiên đường kiếp lui.
Ruột tuôn máu thấm ngậm ngùi,
Huyết thơ vội tả chưa rồi lại rung.
Truyền quân trở lại thành trung,
Huyết thơ bẩm tấu khôn cùng tỏ phân.
Quân bèn vưng lịnh ân cần,
Băng ngàn Sơn lãnh liều thân phen nầy.
Mười ngày về tới thành tây,
Huyết thơ bẩm tấu việc nầy trước sau. (500)
Minh hoàng rơi lụy bàu nhàu,
Thương thay hai tướng anh hào xứng trang.
Thà cam để rạng bia vàng,
Sử xanh truyền lịnh biên chàng vào trong.
Vua bèn hội hiệp văn phòng,
Bên phan bên niết hai dòng nghị công.
Minh vương phán giữa sân rồng,
Chiếu đòi Lê Duyệt trừ xong quân loàn.
Nói rồi truyền chiếu mau sang,
Vào thành Nam trấn đòi chàng cho mau. (510)
Đoạn nầy nhắc lại lần sau,
Khiến thần Nguyễn Điển hồn vào miễu trung.
Thương thay chí khí anh hùng,
Hồn linh vừa dứt xác cùng ngã lăn.
Tống Trấm truyền lịnh quân rằng,
Lấy liền thủ cấp rồi ngăn quân ngoài.
Ba Hoành, Tống Trấm bài khai,
Yến diên hỉ hạ an bài oai nghi.
Hêu đòi tưởu sắc ai bì,
Toại tình sung sướng những khi vui vầy. (520)
Việc binh há chẳng màng chi,
Cửa khoe liễu thắm mĩa khi Tần Tùy.
Ngày thời trà rượu thiếu chi,
Đêm thời sắc dục theo thì tuổi xanh.