Câu 101 – 200

Đèn khí thắp, rõ ràng sáng suốt,

Cầu sắt làm, nhắm cuộc vững bền.

Dưới sông sam-bảng chở chuyên,

Trên bờ xe ngựa chạy liền ngày đêm.

Họ trò nói, bắt thêm cơm quá,

Bèn dắt vào, quán xá ăn chơi,

Ngồi ăn gẫm nghĩ nực cười,

Đói chi cơm bữa, no hơi bánh mì.

Gạo hồi đó, phen bì với ngọc,

(Câu 110) Cơm lúc nầy, sánh được bằng vàng.

Đoái nhìn tàu đậu giăng giăng,

Tải hàng lên xuống lăng xăng rộn ràng.

Tàu tạm ghé, lấy than xong hết,

Chiều mười ba, từ biệt Hạ Châu.

Lấy neo rồi chạy êm ru,

Thấy trời với nước một màu trong xanh.

Ba ngày trọn, theo gành theo bãi,

Sumatra, còn thấy đó hoài.

Nội cù lao, sáu triệu người,

(Câu 120) Mười lăm vẹo thước bề dài thẳng băng.

Ba vẹo thước, bề ngang ngó múc,

Hai triệu dân, hàng phục Hollande.

Dọc gành thấy đá sảng hoàng,

Nếu tàu phải đó tợ dường trứng sa.

Không dông gió, khi qua ngang đó,

Có mưa mây, nho nhỏ mát da.

Hôm nay buồn bả nhớ nhà,

Nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ bà nhớ con.

Lên bòng lái, ngó mông biển rộng,

(Câu 130) Thấy cá bầy, bay bổng xa khơi.

Sáng trăng, tinh gió, thanh trời,

Ngó coi sắc nước có ngời xinh thay.

Nước biển tắm, thường ngày mát mẻ,

Da thịt săn, mạnh khỏe tứ chi.

Tắm đêm mới thấy dị kỳ,

Trên mình nước chảy giống gì sáng trưng.

Tối binh bộ, làng khang nằm trông,

Còn lính tàu, ngủ võng ngay hàng.

Chín giờ kèn thổi kêu ăn,

(Câu 140) Năm giờ chiều lại cũng bằng thổi luôn.

Mười giờ tắt, đèn chong phòng ngủ,

Có lính canh, lính giữ nghiêm trang.

Bảy ngày tàu tới Ceylan,

Cù lao nầy thuộc về phần Anglais,

Ba vẹo thước theo bề dài thẳng,

Ba mươi lăm, muôn chẵn, bề ngang.

Nhìn xem địa thế rõ ràng,

Trái tim day cuốn lại đàng hướng nam.

Phong khí ấm, đầu năm chí cuối,

(Câu 150) Hoa quả thường, có mỗi ngày luôn.

Ngọc trai bán biết mấy muôn,

Cực người lặn kiếm tại trong biển nầy.

Xinh tốt bấy! Mấy tay đeo ngọc,

Thương hại thay! Chúng hộc máu kia.

Nghe ra đất ấy cũng kỳ,

Quế thì như củi, gạo thì như châu.

May ở chỗ, các tàu thường ghé,

Cửa biển sâu, tiện thể vô ra.

Có gần hai triệu người ta,

(Câu 160) Phần nhiều thờ Phật Di Đà Thích Ca.

Người ngoại quấc, gần xa tứ hướng,

CÓ tới nơi, lập hãng bán buôn.

Người đây quần áo như không,

Đàn bà kha khá, đàn ông sơ sài.

Khi gần tới, ở ngoài bãi biển,

Pointe-de-Galles, nhắm kiển xinh kỳ.

Trên thì núi, dưới có ghe,

Chạy buồm coi giống chim sẻ cánh bay.

Tàu ngừng máy, ai ai cũng rộn,

(Câu 170) Lòng vui mừng, bước xuống ghe đò.

Một quan là gía đưa vô,

Không xa cho mấy, đều lo sợ chìm.

Ghe tum húm, ngó xem dị dạng,

Dưới chề bề, theo dáng ghe bầu.

Ván tròn, tra cán chèo lâu,

Ngánh làm một phía khỏi âu nghiêng chìm.

Lên chơi tối, nghỉ đêm tại quán,

Trả sáu quan, cũng đáng đồng tiền.

Giường bằng sắt, nệm lông chiên,

(Câu 180) Mùng sa thanh lịch may liên bịch bùng,

Gần mé biển, gió dông đêm sáng,

Sóng ào ào, ngủ chẳng đặng yên.

Ban đêm đàng sá ít đèn,

Dưới sang sáng đất, trên đen mù trời.

Đem sĩ tử, lên chơi cho biết,

Dạo phố phường, khắp hết nội thành.

Coi lầu đèn vọi ngoài gành,

Mỗi trò cho kẻ ở canh năm tiền.

Súng một vị, trí trên gành ấy,

(Câu 190) Dẫu muôn binh, khôn lấy thành nầy.

Xuống lầu bết cẳng con trai,

Vào nhà thờ đó nghỉ ngơi một hồi.

Trở về quán, gần nơi bãi biển,

Uống bière, nói chuyện nọ kia,

Thấy đem tới bán đồ kỳ,

Hộp bằng lông nhím, vòi thì bằng mun.

Đồ nhỏ nhỏ, lạ lùng hiếm hiếm,

Kiểu to to, tùng tiệm đồ mêu.

Ham chơi đồ lạ tốn tiền,

(Câu 200) Vì lòng cắc cớ thấy liền muốn mua.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!