Có người sang cả ngôi cao;
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều công;
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.
Thái sư dùng lễ vật sang;
Mượn người mai chước kết đàng sui gia.
Kiều công không ép Nguyệt Nga;
Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư.
Thái sư chẳng biết rộng suy;
Ðem lòng oán hận sớm ghi vào lòng. (1370)
Phút đâu giặc (giặt) mọi làm hung;
Lung lăng nết dữ binh nhung dấy loàn.
Ðánh vào tới ải Ðồng-Quan;
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần.
Sao cho vững nước an dân?
Các quan ai biết mưu thần bày ra.
Thái sư nhớ việc cừu nhà;
Vội vàng quì gối tâu qua ngai vàng:
Thuở xưa giặc (giặt) mỏi dấy loàn;
Vì tham s8a1c tốt phá tàn Trung Hoa.(1380)
Muốn cho khỏi giặc (giặt) Ô Qua;
Ðưa con gái tốt giao hòa thời xong.
Nguyệt Nga là gái Kiều công;
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xanh.
Lại thêm rất bực tài tình hào hoa.
Đưa nàng về nước Ô Qua;
Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh.
Sở vương nghe tấu thuận tình;
Châu phê dạy sứ ra dinh Ðôngthành. (1390)
Sắc phong Kiều lão Thái khanh;
Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi.
Nguyệt Nga nàng ấy nên người;
Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ.
Kiều công vưng lịnh nhà Vua;
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.
Nguyệt Nga trong dạ như bào;
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
Thất tình trâm nọ biến cài;
Dựa màn bỏ xả tóc dài ngồi lo.(1400)
Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ;
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên.
Hạnh Ngươn sau cũng khỏi miền;
Bởi người Lưu Kỉ cựu hiềm còn ghi.
Hai người chẳng đã phải đi;
Một là ngay chúa một là thảo cha.
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà;
Thương Vua nhà Hán vốn đà quyên sinh!
Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì linh;
Thương người Lương Ngọc duyên lành phui pha! (1410)
Tới nay phận bạc là ta;
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ nghĩa quân thần;
Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên.
Hai bên nặng cả hai bên;
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
Sao sao một thác thời xong;
Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu.
Kiều công nương gối đương lo;
Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.(1420)
Kêu vào ngồi dựa trướng tiền;
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh.
Chẳng qua là việc triều đình;
Nào cha có muốn ép tình chi con?
Nàng rằng: Còn kể chi con?
Bơ vơ chút (chúc) phận mất còn quản bao?
Thương cha tuổi tác đã cao;
E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
Tuổi già bóng xế nhành dâu;
Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?(1430)
Công rằng: Chẳng sá việc nhà;
Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
Hôm nay đã tới mồng mười;
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành.
Nàng rằng: Việc ấy đã đành;
Còn lo hai chữ ân tình cho xong.
Con xin qua lạy Lục ông;
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
Ngõ cho nhơn nghĩa vẹn tuyền;
Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau (1440)
Kiều công biết nghĩ trước sau;
Dạy đem tiền bạc cấp hầu đưa đi.
Lục ông ra rước một khi;
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
Ngày lành giờ ngọ đăng đàn;
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên;
Trong nhà cho tới láng giềng (riềng) đều thương.
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay?(1450)
Bảy ngày rồi việc làm chay;
Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
Trông chồng mà chẳng thấy chồng;
Ðã đành một chữ má hồng vô duyên.
Rày Vua gả (gã) thiếp về Phiên;
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
Chẳng chi cũng gọi là dâu;
Muốn lo việc nước phải âu đạo nhà.
Một ngày một bước một xa;
Của nầy để lại cho cha dưỡng già.(1460)
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa;
Ngùi ngùi (nguồi nguồi) lạy tạ bước ra trở về.
Các quan xa giá bộn bề;
Năm mươi thể nữ hầu kề chơn tay.
Hai mươi nay đã đến ngày;
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên;
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
Công rằng: Thật dạ xót xa (sa);
Con còn dùng thẳng cho cha thảm sầu.(1470)
Nàng rằng: Non nước cao sâu;
Từ đây cách khỏi không hầu thấy cha.
Thân con về nước Ô Qua;
Ðã đành một nỗi làm ma đất người!
Hai phương nam bắc cách vời;
Chút xin gởi lại một lời làm khuây:
Hiu hiu gió thổi ngọn cây;
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha.
Kiều công hột lệ nhỏ sa;
Các quan ai nấy cũng là tình thương.(1480)
Chẳng qua việc ở Quân vương;
Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi.
Buồm trương thuyền vội tách vời;
Các quan đưa đón người người đứng trông.
Mười ngày đã tới Ải Ðồng:
Mênh mênh biển rộng ầm ầm sóng xao.