Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Bắc vọng Hành Dương nhạn (1),
Nam lai đãi nguyệt lâu.
Thủy trường thân hữu niệm,
Sơn trọng cố hương sầu.
Lạc lạc phong trần nhật,
Tiêu tiêu thảo mộc thu.
U nhân ưng tiếu ngã,
Tiếu ngã vị hồi đầu.
Dịch nghĩa: Bài sáu
Bắc vọng nhạn Hành Dương,
Nam tới lầu đợi trăng.
Nước dài nỗi nhớ bạn thân,
Núi nặng sầu cố hương.
Ngày tháng phong trần lạc lõng,
Xa4c xào cây cỏ về thu.
Người ở ẩn đáng cười ta,
Cười ta chưa biết quay đầu.
Chú thích
(1): Hành Dương là tên một ngọn núi cao ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Vì thế núi cao nên tục truyền rằng chim nhạn bay đến đó, không vượt qua được mà phải quay về.
Hoài Anh dịch thơ
Bắc nhìn nhạn nẻo Hành Dương,
Nam lầu đãi nguyệt thời thường lên thăm.
Nước dài: nỗi nhớ xa xăm,
Sầu cố hương nặng mấy tầm non cao.
Phong trần cảnh đã lao đao,
Lại nghe cây cỏ xạc xào hơi thu.
Người ở ẩn cười ta ngu,
Cười ta mê mải vẫn chưa quay đầu.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.