Đi sứ cảm tác – Bài VII
Một bàn vùa sạch đám hoang hung,
Phong cảnh như vầy phỉ luống (1) trông.
Lối (2) vịnh năm ba thuyền đổ liễu,
Bên non bảy tám hạc về tòng.
Vật còn chút biết trời khuya sớm,
Người dễ không hay đất lạnh lùng.
Lố (3) thấy chín trùng (4) chưa khỏe gối,
Dám đâu mình chịu phận thong dong.
Chú thích
(1): Có sách chép là Dạ.
(2): Có sách chép là Doi hay Dưới.
(3): Có sách chép là Nghĩ, cũng có sách chép là Đoái.
(4): Nơi vua ngự hoặc chỉ vua. Do chữ cửu trùng (chín bậc) do thềm cung điện ngày xưa thường xây cao chín bậc.
Đi sứ cảm tác – Bài VIII
Thong dong như vậy ít ai bì,
Mượn mõ làm vui dễ khó gì, (1)
Thu hứng tám bài thơ Đỗ Phủ, (2)
Đông ngâm một bức họa Vương Duy. (3)
Cầm xoang chấm phím thương tri kỷ,
Cờ sắp thưa (4) con học chính sư. (5)
Nguôi thế thì thôi nguôi dễ đặng, (6)
Nguôi thì dễ đặng khó chi chi.
Chú thích
(1): Có sách chép là có chi.
(2), (3): Đỗ Phủ (710-770), Vương Duyn (701-761): nhà thơ và họa sĩ nổi tiếng của Trung Quốc xưa.
(4): Có sách chép là Thua.
(5): Chính sư: thầy giỏi, học chính gốc.
(6): Có sách chép là Rồi đó thôi thì nguôi dễ đặng.