Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Phong lưu hữu trái nại nhân hà,
Nan tận thù thường trắc hải loa.
Địa cách viên tường bi Tống Ngọc, (1)
Thiên cao cung điện lãnh Thường Nga.
Thu thiền dực bạc sầu minh viễn,
Lạp cự tâm tiêu lệ sái đa.
Bất thị điên cuồng vô vị tác,
Lưỡng khan Ngưu Nữ độ Ngân hà.
Dịch nghĩa: Bài bốn
Phong lưu vướng nợ người biết làm sao,
Vỏ hến đong sao được lượng rượu uống với nhau.
Đất cách tường ngăn buồn cho Tống Ngọc,
Trời cao cung điện lạnh lẽo Thường Nga.
Cánh ve sầu thu mỏng nhưng nỗi sầu kêu xa,
Ngọn nến đốt lòng lệ tưới nhiều.
Không phải là điên cuồng làm chuyện vô cị,
Hai lần nhìn Ngưu Nữ vượt sông Ngân.
Chú thích
(1): Tống Ngọc: Nhà thơ nước Sở thời Chiến quốc, theo sử Trung Quốc.
Hoài Anh dịch thơ
Lượng rượu, vỏ hến đong sao được mà,
Tường ngăn Tống Ngọc xót xa,
Trời cao cung điện Thường Nga lạnh lùng.
Ve cánh mỏng, tiếng não nùng,
Đốt lòng ngọn nến dòng dòng lệ sa.
Không điên cuồng, biết chi mà,
Nhìn Ngưu Nữ vượt Ngân hà hai phen.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.