Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Anh gùng tự cổ ái thành danh,
Nhất tự thành danh bách kỵ manh.
Hoa triệu bất quan lai thỉnh ấn,
Nguy cơ đa tự thiện tương binh.
Tề thành vị phá uy phương trọng,
Sở quốc tài vong mệnh dĩ khinh.
Tri đáo cửu tuyền do ẩm hận,
Đương nhiên hối bất thính nho sinh.
Dịch nghĩa: Hàn Tín
Anh hùng từ xưa thích thành danh,
Một khi thành danh trăm điều ghen ghét nảy mầm.
Điềm họa không liên quan với chuyện đến xin ấn,
Nguy cơ phần nhiều tự chỗ giỏi cầm binh.
Thành Tề chưa phá uy còn lớn,
Nước Sở vừa mất mệnh đã rẻ giá.
Biết rằng đến suối vàng còn uống hận,
Năm trước hối không nghe lời nho sinh.
Chú thích
(1): Hàn Tín: người thời Tần Nhị thế Hồ Hợi theo sử Trung Quốc.
Hoài Anh dịch thơ
Anh hùng tự cổ thích thành danh,
Danh lập, trăm điều đố kỵ sinh.
Điềm họa không vì xin ấn tín,
Nguy cơ nhiều bởi giỏi cầm binh.
Thành Tề chưa phá uy còn lớn,
Nước Sở vừa tan mệnh đã khinh.
Biết tới suối vàng còn uống hận,
Cự lời khuyên trước của nho sinh.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.