Đinh Mão niên quý thu khâm mệnh tứ phong Cao Miên Quốc vương đồ kinh Quảng Nghĩa Trà Khúc ngộ hồng thủy trú tiết Long Đầu sơn

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Hành tinh ngộ vũ trú Long Đầu (1),

Trà Khúc thao thao trú dạ lưu.

Trị thủy tích thời do hữu đạo,

Tế xuyên kim nhật khởi vô chu.

Tĩnh quan vân sắc thiên sơn mộ,

Nhàn thính phong thanh vạn mộc thu.

Dục tốc tòng lai đa bất đạt,

Tội cam vương mệnh trú yêm lưu.

Dịch nghĩa: Tháng mười năm Đinh Mão vâng mệnh sang phong cho Quốc vương Cao Miên, đường qua Trà Khúc Quảng Nghĩa gặp nước lũ, đóng lại núi Long Đầu

Cờ xí đi đường gặp mưa ở núi Long Đầu,

Sông Trà Khúc ngày đêm chảy cuồn cuộn.

Trước đây đã có đường lối trị thủy,

Đưa qua sông ngày nay há không có thuyền.

Lặng nhìn sắc mây nghìn núi tối,

Nhàn nghe tiếng gió muôn cây về thu.

Xưa nay muốn nhanh chóng là không đạt được,

Tội cam chịu mang mệnh vua mà nán lại lâu.

Chú thích

(1): Long Đầu: núi nằm bên trái sông Trà Khúc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi ngày nay.

Hoài Anh dịch thơ

Gặp mưa trú lại núi Long Đầu,

Trà Khúc ngày đêm nước chảy mau.

Trị thủy trước đà bày phép sẵn,

Qua sông nay có thiếu thuyền đâu.

Nhìn mây nghìn núi đang chiều tối,

Nghe gió muôn cây rặt tiếng thu.

Muốn chóng xưa nay không đạt được,

Tội mang vương mệnh nán lưu lâu.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!