Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Văn đạo tinh thiều dĩ độ cương,
Quế Lâm thành thượng nhật tương vương (vọng).
Tàn hà phảng phất lai tinh bái,
Minh nguyệt bồi hồi lạc ốc hương.
Vũ sắc ám lưu quan xá tịch,
Tuyết thanh loạn điểm khách tâm mang.
Tương tư vạn lý sơn tương cách,
Túc địa (2) vô do hận cánh trường.
Dịch nghĩa: Làm theo vần bài thơ vông đất Tấn Tề của Cấn Trai
Nghe tin xe sứ đã vượt biên cương,
Trên thành Quế Lâm ngày ngày mong ngóng.
Ráng tàn phảng phất như cờ đến,
Trăng sáng bồi hồi rơi trên rường nhà.
Sắc mưa ngầm lưu chốn công quán vắng vẻ,
Tiếng tuyết rỏ loạn lòng khách bận.
Nhớ nhau vạn dặm núi ngăn cách,
Không có phương rút đất hận càng dài.
Chú thích
(1): Cấn Trai: tức Trịnh Hoài Đức.
(2): Túc địa: rút đất.
Hoài Anh dịch thơ
Nghe xe sứ vượt biên cương,
Thành Quế Lâm mỗi ngày thường ngóng trông.
Ráng tàn phảng phất cờ hồng,
Bồi hồi ngỡ ánh trăng lồng rường cao.
Sắc mưa công quán vắng teo,
Bận lòng tiếng tuyết reo loạn thềm.
Núi ngăn tình nghĩa anh em,
Không phương rút đất, hận thêm nặng dài.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.