01 – Trận máu lửa ở biển Thi Nại

Tin cáo cấp của Võ tánh ở Qui Nhơn vào đến Gia Định.

Chúa Nguyễn (1) tự mình đem các đại tướng và các đạo thủy binh, bộ binh, tượng binh kéo ra cứu viện.

Từ tháng tư đến tháng chạp năm canh thân (1800) hai bên đã giao chiến nhiều trận dữ dội, quân Nguyễn thắng trận luôn luôn mà vẫn không thể vào được nơi vòng vây. Vì quân Tây (2) vừa mạnh, vừ nhiều, cách cục sắp đặt lại rất chu đáo.

Mặt bộ, năm vạn bộ quân có voi, có ngựa, có đại bác, theo quyền điều khiển của Thiếu phó Trần Quang Diệu, giòng giả trong một năm, vừa vây thành, đánh thành, vừa phòng giữ các nơi hiểm yếu.

Tại miền Chí Lô (3) họ đắp dẫu lũy dài hơn ngàn trượng chặn ngang phía Nam Qui Nhơn.

Những nơi Chú Sơn, Vân Sơn, Hoa Yên, Thị Dã, La Hai vân vân, họ lập hơn chín chục đồn, đồn nào cũng cực kỳ kiên cố.

Mặt thủy, Tư đồ Võ Văn Dũng thống lĩnh hai vạn thủy quân đóng giữa cửa biển Thi Nại.

Đồng thủy, trại thủy la liệt khắp trên mặt nước.

Giáp trong cửa biển, ba chiếc thuyền lớn hiệu chữ “Định Quốc”, mỗi chiếc dài bằng mấy chục căn nhà, sắp hàng chữ “nhất” chắn ngang mặt biển, giống như một dẫy phố ài.

Kèm với những chiếc thuyền ấy, lại có mấy trăm chiến thuyền đóng liền với nhau, làm cho mặt biển phẳng như mặt đất.

Rồi đến những đoàn thuyền nhỏ lanh lẹ đi tuần ngoài khơi, bóng thuyền trèo trên mặt khơi, phấp phới như lá tre ngày bão.

Hai bên tả hữu cửa biển, trên Cồn Nhạn cũng như trên núi Ba Tòa, đều có đồn quân đóng giữ, dinh trại ngổn ngang.

Những khẩu đại bác chòm chỗm ngồi trước các đồn, hằng ngày nhòm xuống dưới biển, chỉ chực hơi có động dụng, tức thì chỉa cả ra biển mà bắn.

Quân Nguyễn láng váng ngoài biển năm, sáu tháng trời, đạo thủy vẫn chưa liên tiếp được với đạo bộ, ở giữa còn mắc nhiều đồn quân Tây.

Chúa Nguyễn đóng tại vịnh biển Cù Mông. Ngài rất sốt ruột trong mỗi khi nghe tin quân mình ra trận .. và những lúc nghe bọn mật sai (thám tử) trình báo tình hình bên địch.

Chính mình Chúa Nguyễn đã dẫn một đoàn chiến thuyền có nhiều đại tướng ủng hộ đương đêm, tự vũng Cù Mông vượt ra, chực lẻn vào đánh Thi Nại. Chẳng ngờ tới hòn Thổ Dữ lại bị gió Bắc thổi ngược, phải lùi trở về. (4)

Trông thấy quân địch đội ngũ nghiêm chỉnh, đồn ụ vững vàng, Chúa Nguyễn đã phải thở dài và than: “Trời chưa muốn diệt giặc Tây hay sao? Cớ sao cứ bắt lương tướng (5) của ta phải khổ mãi ở trong đó?”

Ngày rằm tháng giêng năm Tân Dậu (1801), chiều trời bỗng thấy đổi khác.

Gió đông ào ào tự nẻo giữa khơi thổi vào trong rừng.

Mặt biển sóng nổi cuồn cuộn.

Trên trời mây kéo âm thầm.

Tối đến, gió càng mạnh, sóng càng dữ, mây càng phủ dầy, mặt trăng chỉ còn ánh sáng lờ mờ chiếu xuống mặt biển.

Theo lệnh Chúa Nguyễn, một đạo hơn vạn thủy quân do Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương làm tiên phong, kèm có hơn trăm thuyền chiến và hơn hai chục thuyền nhỏ chất đầy cỏ khô tẩm nhựa chám, tự vũng Cù Mông kéo ra.

Hồi cuối canh ba, đội quân ấy vừa vượt đến miền Thổ Dữ.

Trong trại quân Tây, đèn đuốc sáng như sao sa.

Trên Cồn Nhạn và trên núi Bà Tòa, những cây đình liệu lửa cháy đùng đùng, ánh sáng rọi khắp vùng cửa biển.

Tiếng trống cái và tiếng mõ cá cầm canh xen với tiếng hô của bọn quân sỹ đi tuần, rộn rịp điểm trong các trại.

Khoảng cuối canh tư, mặt trăng lui xuống phía sau đồi cây, mấy cây đình liệu lù mù sắp tắt, cửa biển đã tối sầm lại.

Đột nhiên trước núi Ba Tòa thấy có lửa bốc.

Chỉ trong giây lát, ngọn lửa lan khắp mấy chiếc mui bồng, ánh sáng bốc lên rừng rực.

Tiếng kêu cháy, tiếng kêu cứu, tiếng kêu giặc, đồng thời nổi lên ầm ầm.

Chiến thuyền ở các trại quân Tây lũ lượt đổ đến.

Dưới bóng lửa sáng, mấy chiếc thuyền của quân Nguyễn nhẹ như tên, nhanh như thoi dệt cửi, thi nhau xông pha trong đoàn thuyền của quân Tây.

Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương mỗi người cưỡi một chiếc thuyền vừa múa đao chém giết quân Tây, vừa hò hét quân mình phóng hỏa.

Thì ra trong khi ra đến Thổ Dữ, hai tướng bắt được chiếc thuyền quân Tây đi tuần, dò được khẩu hiệu của họ đêm ấy, nên mới lẻn vào tới đó mà quân Tây không hay. Đến khi lửa cháy, Đô đốc Trà lật đật cưỡi thuyền chống cự, liền bị Văn Trương chém chết.

Gió càng mạnh, lửa bốc càng to, quân Tây nhao nhao nha3t cả xuống biển.

Mấy phút sau quân cứu kéo đến đông nghịt, một mặt đánh đắm những thuyền bị cháy cho ngọn lửa khỏi lan, một mặt ra sức đuổi giết quân Nguyễn.

Tiếng còi rúc, tiếng người reo, tiếng trống ngũ liên thúc rền, hòa với tiếng nước triều tự trong cửa sông đổ ra, mặt biển ồn ào như tiếng rên của một trận động đất.

Chừng nửa giờ dần, ngọn lửa gần tắt, ánh sáng mặt trời tự góc biển đông chiếu lại.

Các thuyền quân Nguyễn đều bị hãm trong rừng thuyền quân Tây, Văn Trương và Phúc Lương vẫn liều mạng đốc quân đánh chém.

Giáo mác đụng nhau chí chát.

Xác người theo những mảnh thuyền vỡ nổi trên mặt nước lềnh phềnh.

Sau đám quân Tây bỗng có tiếng reo ầm rĩ.

Một đội chiến thuyền bên Nguyễn sầm sập từ nẻo Thổ Dữ bơi vào.

Tới gần cửa biển, đoàn thuyền ấy tức thì chia làm hai toán.

Một tướng trẻ tuổi tầm người thấp nhỏ, phất lá cờ đỏ, đốc một toán thuyền xông thẳng vào trước Cồn Nhạn.

Một toán thuyền nữa theo hiệu cờ trắng của một tướng cao lớn, bơi tuốt tới trước núi Ba Tòa.

Quân Tây lập tức chia làm ba bọn.

Một bọn cứ vây đoàn thuyền của Văn – Trương, Phúc – Lương, còn hai bọn quay ra chống nhau với hai toán thuyền mới đến.

Trống thúc inh ỏi.

Tù và thổi như ếch kêu.

Cuộc giao chiến bắt đầu dữ dội.

Sang đầu giờ mão, sương đá tan, trời đã sáng, đứng ở nẻo trong đã có thể nhận rõ mặt người nẻo ngoài.

Sau một tiếng thét dữ dội của Tư đồ Dũng, tiếp đến tiếng loa ậm ọe của viên tướng Tây, mấy chục thần công đại bác, mấy trăm súng con ở trong Cồn Nhạn và trên núi Ba Tòa nhất tề phát lửa.

Hàng nghìn tiếng nổ đồng thời phát ra.

Mặt biển vang như trời long đất lở.

Khoảng nữa giờ thìn, súng bắn càng dữ. Khắp vùng cửa biển, khói tỏa mịt mù, hơi thuốc bay ra khét lẹt. Trên biển đạn đi rào rào như trời đổ mưa.

Quân Nguyễn cứ liều chết xông vào.

Quân Tây vẫn ra sức đánh dấn.

Thế trện mỗi phút mỗi thêm kinh liệt.

Gần hết giờ Tỵ, mặt trời gần đến đỉnh đầu, gió dần dần yếu, sóng dần dần êm.

Trống vẫn thúc, người vẫn reo, súng vẫn nổ, mặt biển vẫn ầm ầm như đổ cây nước.

Trong trận quân Nguyễn, lá cờ đỏ và lá cờ trắng vẫn bay rối rít, viên tướng thấp nhỏ và viên tướng cao lớn vẫn gầm hét đốc quân trèo thuyền tiến lên.

Thuyền đắm ùm ùm.

Người chết như rạ.

Sang giờ ngọ, quân Tây chống cự càng rát, quân Nguyễn chết bại rất nhiều.

Thế trện bên Nguyễn đã thấy hơi núng.

Bỗng một tiếng quát to như tiếng sấm rự mạn Cồn Nhạn đưa ra, viên tướng thấp nhỏ nhẩy lên phía trước. Nhanh như chong chóng, tướng ấy một tay phất cờ, một tay múa gươm, vừa băm chém quân Tây, vừa thúc giục quân mình vào đánh.

Lại một tiếng gầm dữ dội. Viên tướng cao lớn ở mặt Bà Tòa cũng tay kiếm tay cờ, xông lên đầu thuyền, đứng doãi hai chân đốc chiến.

Quân Tây không hề lui nhụt.

Gươm giáo trong các chiến thuyền đâm ra chua chủa.

Súng ở các ụ bắn xuống đùng đùng.

Những khẩu đại bác trong Cồn Nhạn và trên núi Ba Tòa vẫn nỏ đoành đoành như tiếng sét.

Cuộc đâm chém kịch liệt trong nửa giờ. Đầu người rơi như thụy rụng. Xác người bổ ngửa bổ nhào xuống biển lao nhao như một đám bổ củi.

Chợt ở trước núi Ba Tòa, quân Tây cười reo ầm ầm.

Hòn đại bác trên đồn Ba Tòa đã bắn nhằm đầu viên tướn cao lớn bên Nguyễn. Sọ đầu tan tành, tướng ấy nhào xuống sạp (ván) thuyền, lá cờ và thanh kiếm trong tay rớt cả xuống biển.

Quân Nguyễn ở đó hoảng khiếp, luống cuống tranh nhau bỏ thuyền nọ chạy qua thuyền bên kia, đoàn thuyền trước trận chòng chành chực đắm, mặt biển dập dềnh như bị nghiêng lật.

– Quan Trung thúy bị đạn mất rồi!

Tiếng kêu hốt hoảng tự đám hữu quân truyền sang.

Viên tướng thấp nhỏ vội quay đầu lại, thì người bạn can đảm của mình đã nằm sóng sượt trên thuyền, hai chân còn rẩy đành đạch.

Sắc một đỏ bừng như bị lửa châm, tướng ấy vừa hạ lệnh chém luôn mấy chục tên quân chạy lùi, vừa cắm đầu phất cờ, đốc thúc các thuyền xông vào trong rừng gươm đạn.

Hàng ngũ lại chỉnh, các đội quân Nguyễn lại nhất tề liều chết đánh lên.

Chừng nửa giờ Mùi, mặt trời đã xế, mặt trận vẫn kịch liệt như trước.

Trong 2 đội quân Nguyễn, chợt nhô ra một tên tiểu sai:

– Trình quan Thống Chế, có lệnh Đức Chúa ban ra.

Viên tướng thấp nhỏ đưa mắt nhìn lại.

Tên tiểu sai chìa ra một cái bài rồng và tiếp:

– Đức Chúa được tin tướng sỹ bị hại nhiều quá. Ngài truyền quan lớn hãy lui quân về tạm lánh sự hung tợn của quân giặc!

– Ngươi về bẩm (6) với Đức Chúa, chết thì chết, ta quyết không lui!

Dứt lời, viên tướng thấp nhỏ xây mặt ra trước trận, cờ vẫn phất, gươm vẫn múa, miệng vẫn hò hét luôn luôn.

Quân Nguyễn lúc này hăng hái bội phần, quân Tây bị giết nhiều lắm, Tư đồ Dũng nóng ruột, bỏ ra mặt trận quát tháo rầm rĩ.

Một sạp súng nổ liên thanh bất chỉ. Quân Nguyễn lại chết la liệt, xác người vẩn cả gậm thuyền, một vùng nước biển vì nhiều máu người hòa lộn, mầu xanh đã biến ra sắc đen sì.

– Trình quan Thống chế, Đức Chúa truyền quan lớn nên xót tướng sỹ, không nên đánh liều.

Tên tiểu sai vừa rồi lại cầm bài rồng đến nói với tướng thấp nhỏ.

– Nhất là tướng sĩ chết hết, ta chưa chết thì ta còn đánh. Ngươi về bẩm với Đức Chúa làm vầy.

Miệng tuy nói, lá cờ trong tay tướng ấy vẫn vẫy không dừng.

Mặt trời tà tà, trên biển nhuộm mầu đỏ ối.

Khoảng đầu giờ Thân, gió đông lại bắt đầu nổi, sóng biển lại bắt đầu rồn rập.

Quân sỹ hai bên đều chết già nửa, mặt trận vẫn giáp lá cà.

Tên tiểu sai lúc nãy lại đến bên cạnh viên tướng thấp nhỏ với chiếc bài rồng cầm tay:

– Trình quan Thống chế, Đức Chúa truyền quan lớn rút quân lập tức.

Viên tướng thấp nhỏ chỏ thẳng ngọn cờ ra phía Ba Tòa:

– Việc đã đến vầy, ta phải liều chết đánh nhau, cứu lấy đội quân tiên phong trong đó (7). Ngươi về bẩm với Đức Chúa, xin Ngài cững dạ chớ lo.

Rồi tướng ấy lại càng ráng sức thúc đánh.

Trời nhá nhem tối.

Đèn đuốc hai bên đốt lên sáng trưng.

Trong Cồn Nhạn, trên núi Ba Tòa, những cây đình liệu lại đồng thời bốc lửa.

Súng đã thưa bắn, đại bác cũng chưa nổ. Nhưng, trống thúc vẫn già, tù và thổi vẫn dữ, tướng sỹ hai bên đâm chém vẫn hăng hái.

Sang giờ Dậu, gió đông càng to, sóng biển càng mạnh.

Một cái ám hiệu của viên tướng thấp nhỏ truyền cho thủy thủ. Hàng thuyền trước trện quân nguyễn nhất tề lui xuống, hơn chục thuyền nhỏ, tức thì tiến lên mặt trận. Rồi ở lớp thuyền thứ hai, hơn chục bó đuốc đồng thời liệng vào lớp thuyền nhỏ đó.

Những chiếc thuyền ấy đều chất cỏ khô có tẩm nhựa chám, lửa bén rất mau.

Trong chớp mắt, hơn chục chiếc thuyền cỏ hóa ra hơn chục gò lửa. Một lát sau, ngọn lửa kéo liền với nhau, trước trận quân Nguyễn, hiện ra một dẫy thành lửa.

Gió đông thổi mạnh, bức thành lửa phăng phăng bạt qua mặt trận quân Tây. Chừng nửa phút, một đoàn chiến thuyền bên Tây đều bị cah1y hết.

Quân Tây trốn tránh không kịp, nhảy xuống biển nhao nhao. Tư đồ Dũng tất tả đem tụi thân binh chạy tuốt lên đồn Cồn Nhạn.

Góc biển trước Cồn Nhạn khi ấy đã thành một trái núi lửa. Ngọn núi lửa bị gió thổi bạt, ngả lướt vào phía Cồn Nhạn.

Dinh trại trên Cồn Nhạn toàn là mái lá, cột cây, rất dễ bắt lửa. Chừng nửa khắc, nhà cửa đều bị thiêu, quân Tây chết cháy vô số. Tư đồ Dũng cắm đầu chạy miết vào miền Qui Nhân với một toán tàn quân.

Quân Nguyễn ở ngoài thừa thế đánh dồn qua phía cửa biển.

Bấy giờ thủy đồn quân Tây ở cửa biển vẫn không bị cháy. Thống lĩnh Thành vẫn đứng trên thuyền Định Quốc đốc quân chống cự rất hăng. (8)

Góc trận đông nam bỗng có lửa bốc sáng rực.

Lại mười chiếc thuyền cỏ đốt lửa của quân Nguyễn xăm xăm trôi áp đoàn thuyền quân Tây. Gió thổi tới đâu, lửa lan tới đó.

Cũng như số phận các thuyền ở trước Cồn Nhạn, ba chiếc Định Quốc và những chiến thuyền ở đó đều bị làm mồi cho thần hỏa.

Mặt biển lại thêm mấy trăm quân Tây chết thui, Thống lĩnh Thành cũng nhảy xuống biển tự tự.

Trước núi Ba Tòa chợt có tiếng người hò reo.

Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương đã đánh tan được vòng vây, kéo ra phía trước cửa biển. Giao chiến trong một đêm, một ngày, hai chục chiến thuyền của hai tướng chỉ còn được hơn mười chiếc.

Văn Trương, Phúc Lương liền hợp lại với tướng thấp nhỏ đốc quân lên bộ phá đồn Ba Tòa. Quân Tây khiếp đảm bỏ cả dinh trại mà chạy.

Ba người sai một đội quân ở lại giữ đồn Ba Tòa, rồi cùng xuống thuyền cắt người vào vũng Cù mông báo tin thắng trận.

Mặt Cồn Nhạn và miền cửa biển, bóng lửa vẫn sáng rực trời.

Khoảng cuối giờ Tuất, Chúa Nguyễn cùng nhiều tướng sỹ cưỡi thuyền Thụy Phượng tự mạn Thỗ Dữ tiến vào.

Gió đã ngớt, mây đã quang, vừng trăng vằng vặc trên mặt biển, đứng giáp bờ biển trông ra, có thể thấy rõ những đám xác người và ván thuyền vật lộn với những lớp sóng cả.

Sau khi cưỡi thuyền đi thăm mấy nơi chiến trện vừa rồi, Chúa Nguyễn trở về thủy trại vỗ vai viên tướng thấp nhỏ, Ngài mỉm cười:

– Trận này chẳng kém gì trận Xích Bích. Ngươi thật là Chu Du của ta.

Rồi chúa Nguyễn cùng các tướng đem đại quân vào đóng trong cửa biển Thi nại.

Bữa ấy là ngày 10 tháng giêng năm tân Dậu.


(1): Tức là vua Gia Long.

(2): Tức là quân Tây Sơn.

(3): Theo Thế tổ Cao hoàng đế Long Hưng sự tích.

(4): Theo Đại Nam thực lục chính biên.

(5): Chỉ vào Võ Tánh.

(6): Lúc ấy các quan tong vua Gia Long vẫn gọi là “bẩm”.

(7): Theo Thế Tổ Cao hoàng đế Long Hưng sự tích.

(8): Theo Thế Tổ Cao hoàng đế Hưng Long sự tích.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!