Chương II

Trừ cường đạo nên trang nghĩa khí,

Kết phụng loan rõ mặt trung trinh.

Nói về Vương Thế Trân khi thấy bọn ấy đi rồi thì sẽ lén bước ra hé cửa dòm coi cho biết chúng nó muốn làm chi. Đứng ngó giây lâu chẳng thấy tăm dạng chi cả, vừa muốn bước vô đóng cửa lại đặng mà nghỉ, lại vẳng nghe nơi phía bên kia rào có tiếng đờn kìm rất nên tao nhã, rõ ràng tiếng kim tiếng thạch chen nhau, song nghe cho kỹ thì có hơi ai oán thảm sầu quá đỗi.

Nghe như vậy liền bước lại vạch rào dòm qua coi ai đờn cho biết. Vừa ngó qua đặng thì thấy dưới bóng trăng có một người con gái độ chừng 16,17 tuổi đương ngồi trên một tấm đá trắng mà đờn.

Dưới bóng trăng Nhan tiểu thơ dạo tiếng đờn kìm.

Bởi nghe có hơi động nên chị ta day mặt qua hướng ấy mà ngó chừng, cho nên Vương Thế Trân mới thấy rõ thiệt là một trang tuyệt sắc, nguyệt thẹn hoa nhường, thiên kiều bá mị, vạn chưởng phong lưu, coi chẳng khác như thiên thượng Hằng Nga. Song xem chưa mãn nhãn mà người ngọc đã day qua hướng  khác cứ việc đờn, còn thấy cái lưng mà thôi. Lấy làm bức tức nên anh ta mới có ý làm động một lần nữa cho nàng ấy day mặt lại.

Chẳng dè nàng ấy liền lên tiếng kêu hai đứa a hườn bảo lại bên rào coi có gian nhơn nào đó. Hai đứa liền vưng chạy vòng ra cửa rào gặp anh ta còn chăm chỉ ngó trân, hai đứa a hườn liền lại vỗ vai nạt rằng:

– Gian nhơn ở đâu dám đến đây mà dòm lén như vậy?

Anh ta giựt mình ngó lại thấy hai đứa a hườn thì mắc cỡ nên đổ cộc nói xẳng rằng:

– Ta đây là đường đường nam tử, bốn phương thiên hạ nghe tên, sáu tỉnh anh hùng nép mặt, sao bay dám cả gan gọi ta là gian nhơn?

Hai con a hườn thấy vậy thì chẳng dám nói chi cả, một đứa đứng đó giữ chừng, còn một đứa chạy vô đọc mấy lời ấy cho tiểu thơ nghe. Tiểu thơ liền bảo ra mời anh ta vô; vô đến nơi thì tiểu thơ liền đứng dậy bái mà nói rằng:

– Chẳng biết tướng quân có phải là Vương công tử chẳng?

Vương Thế Trân liền đáp rằng:

– Phải,

Rồi hỏi:

– Vì sao mà tiểu thơ biết đặng tên tôi? Còn tiểu thơ là ngươi chi của Trịnh trại chủ mà lại ở đây?

Nàng ấy vừa nghe nói như vậy thì quì xuống lạy mà nói rằng:

– Tướng quân ôi! Việc thảm khổ của tôi đây nói sao cho cùng đặng. Và tôi tên là Nhan Khả Ái, cha tôi là Nhan Kế Hiền, trước ngồi tri phủ Định Tường sau về hưu trí lập nghiệp nơi đây; nhà giàu có lớn, ruộng đất nhiều. Cách năm tháng trước, Trịnh Cao dẫn vài trăm lâu la đến đây giết cha tôi mà đoạt cả gia tài ruộng đất, nhờ có của ấy nó mới chiêu binh mãi mã thêm mà ra đại sự ngày nay như vầy. Nó lại cưỡng bức mẹ tôi bảo phải theo nó mà hầu hạ. Mẹ tôi vì thương tôi cho nên phải ẩn nhẫn mà chịu sự hổ thẹn, đợi cơ hội mà trả cừu cho cha tôi. Cho nên từ ấy nhẫn nay mẹ con tôi mỗi đêm mỗi đặt bàn giữa trời mà nài với Hoàng Thiên, xin sai người đến cứu mẹ con tôi và rửa hờn cho cha tôi. Cách bà đêm nay mẹ tôi có nằm chiêm bao thấy cha tôi về mách bảo rằng: Lời khẩn nguyện của mẹ con tôi đã thấu đến thiên đình rồi, cho nên cha tôi đã đặng phong làm thần trong xứ nầy, và trong đêm nay sẽ gặp một người nghĩa sĩ tên là Vương Thế Trân, phải tố trần sự oan khúc cho người ấy thì người ấy sẽ cứu và oán cừu ắt trả đặng. Vậy mà hồi chiều nầy nghe con a hườn tôi nó nói nghe rằng bữa nay có tên Vương Thế Trân nào đó đến nhục mạ Trịnh gia cho nên gia gia mới phục rượu cho người ấy rồi khiến đem bỏ ra sau nhà vườn đặng có đem đồ dẫn hỏa mà đốt cho chết. Nghe như vậy cho nên tôi lấy làm lo rầu quá, vì thấy điềm chiêm bao nói Vương ân nhân đến cứu, sao nay ân nhân đến đây lại bị hại thì làm sao mà cứu mẹ con tôi đặng. Nên tôi mới ra đây đờn ít chặp giải khuây, chẳng dè gặp ân nhân đây thật lấy làm may mắn quá. Vậy xin ân nhân thương lấy mẹ con tôi ra tay tế độ mà vớt kẻ trầm luân cho khỏi chốn nhuốc chơ, cho xong bề cừu oán, thì tôi cũng nguyện ngậm vành kết cỏ mà đáp ơn sâu, mang lông đội sừng mà đền ơn nghĩa trượng.

Nói rồi cứ việc lạy khóc. Vương Thế Trân thấy vậy liền biểu a hườn đỡ dậy rồi nói rằng:

– Tôi cũng biết bọn Trịnh Cao, Trịnh hạ là đồ chẳng ra chi, song chẳng dè nó dám cả gan làm việc độc ác như thế. Nay nó lại dụng ám tiễn thương nhơn mà hại tôi nữa thì tôi thiệt khó dung đặng, ngặt vì chẳng biết cây đòn gánh của tôi nó để đâu, nếu chẳng có cây ấy thì lấy chi mà chống cự với bọn nó cho đặng?

Nhan Khả Ái liền thưa rằng:

– Tôi thấy nó cất đồ hành lý và cây đòn gánh ấy trong phòng nó, song lúc nầy nó mắc ra ngoài đặng đốc quân xe củi và đồ dẫn hỏa phòng đốt ân nhân, nên để tôi vào thưa cho mẹ tôi hay, rồi tôi sẽ biểu a hườn lén lấy đem ra cho.

Vương Thế Trân liền nói:

– Nếu vậy thì được.

Nàng Nhan Khả Ái liền trở vô với hai con a hườn một chặp thấy hai đứa khiêng cây đòn gánh ra giao cho Vương Thế Trân mà nói rằng:

– Cô tôi kính lạy ân nhân xin ráng cứu người chớ bây giờ chẳng dám ra nữa, vì e tiết lậu cơ mưu mà khó lòng.

Vương Thế Trân cũng nhắn lại nói:

– Xin thưa với tiểu thơ hãy an lòng để mặc tôi toan liệu.

Nói rồi, nhảy ngang rào mà trở về chỗ cũ. Về đến nơi thì lấy cây đòn gánh phá một lỗ nơi vách phía sau rồi khóa cửa trước lại mà nghỉ.

Vừa nằm xuống thì đã nghe có tiếng sạt sạt cung quanh nhà ấy. Vương Thế Trân liền lại chỗ hở mà dòm thì thấy Trịnh Cao và Trịnh Hạ đều cỡi ngựa, tay cầm binh khi đốc sức cho quân sĩ xe vận những lưu hoàng, diêm tiêu, cây sài dẫn hỏa sắp bao xung quanh nhà ấy.

Vương Thế Trân thấy vậy thì giận lắm song chẳng thèm nói, để coi cho biết nó làm đến việc rồi sẽ ra tay cũng chẳng muộn chi. Sắp đặt rồi, Trịnh Cao mới truyền quân bao vây nhà ấy ba lớp, rồi mới nổi lửa lên mà đốt, trong giây phút thì bốn phía lửa đã hừng đều.

Trịnh Cao liền chỉ vô đống lửa mà mắng rằng:

– Loài thất phu, cho hết cái kiếp khua môi, cho hết cái đời uốn lưỡi. Cha chả! Mi giữ lòng trung nghĩa với Lê trào, nay sao chẳng kêu nhà Lê đến đây mà tắt lửa dùm cho mi.

Đương nói láp dáp chẳng dè trong nầy Vương Thế Trân chun ra ngả sau chống roi nhảy ngang qua ngọn lửa vừa đến trước mặt Trịnh Cao.

Trịnh Cao thấy vậy cả kinh lính quýnh, Vương Thế Trân chẳng thèm nói chi cả, cứ hươi roi đánh tới. Trịnh Cao né khỏi rồi chém lại một siêu, chẳng dè Vương Thế Trân đỡ hất cây siêu ra mạnh quá làm cho cây siêu gãy làm hai đoạn.

Trịnh Hạ thấy vậy bước tới tiếp chiến làm cho Trịnh Cao thoát khỏi. Vương Thế Trân thấy vậy e nó chạy mất, nên triển hết bình sanh chi lực mà đánh xuống một roi. Cây giáo của Trịnh Hạ cũng gãy lìa mà lại bị cái trớn roi mạnh quá làm cho anh ta té xuống ngựa.

Vương Thế Trân bồi thêm một roi nát nghiến như tương, rồi liền thót lên lưng con ngựa của Trịnh Hạ phá tan quân sĩ mà tìm kiếm Trịnh Cao.

Còn Trịnh Cao khi thoát ra khỏi rồi, thì biết việ nầy bể ra đây, chắc tại mẹ con Nhan Khả Ái chớ chẳng ai, nên tuốt vô nhà quyết kiếm cho đặng mà giết cho rồi, rồi sẽ tầm phương tị nạn. Ai ngờ mẹ con Nhan Khả Ái biết trước nên đã dắt nhau ra sau đụt vườn mà trốn, cho nên Trịnh Cao đào soát cùng nhà mà chẳng gặp, lại sợ Vương Thế Trân theo bắt mình, nên chẳng dám kiếm lâu, lật đật trở ra thót lên ngựa mà chạy. Ai ngờ vừa đến cửa vườn thì Vương Thế Trân cũng vừa sải ngựa đến đó.

Khi Vương Thế Trân thấy Trịnh Cao trong cửa vườn chạy ra thì thất kinh, tưởng có lẽ nó đã hại mẹ con Nhan Khả Ái, nên nạt rằng:

– Súc sanh! Mi đã hại mẹ con Nhan Khả Ái rồi chăng?

Trịnh Cao liền nói rằng:

– Mẹ con Nhan Khả Ái ở đâu tôi không thấy, còn tôi với đại ca không thù oán chi, sao đại ca nỡ bức tôi chi lắm vậy?

Vương Thế Trân giận nạt lớn lên rằng:

– Súc sanh, mi còn gọi không cừu không oán nữa? Mi đã dụ dỗ ta làm điều phi nghĩa ta chẳng khứng làm, lại lấy lẽ lợi hại mà phân trần cho mi nghe, mi lài mống lòng ám hại ta như vậy còn gọi là không thù sao?

Trịnh Cao liền năn nỉ rằng:

– Xin đại ca rộng xét, nào phải tại tôi đâu, nhơn em tôi là Trịnh Hạ, nó dại lén tôi mà làm ra việc như vầy, đến chừng tôi vừa hay được thì tức tốc ra đặng mà cản nó. Chẳng dè đến nơi thì nó đà nổi lửa, tôi vừa đứng ngó, kế đại ca lướt đến đánh tôi, chớ tôi nào có lòng ám hại đại ca đâu. Nếu tôi có lòng như vậy xin cho tôi chết về mũi đao thương kim kích.

Vương Thế Trân thấy thề như vậy thì cười mà nói rằng:

– Thôi để ta giúp cho mi thấy lời thề ấy là linh.

Nói rồi đánh một roi, Trịnh Cao nát óc nhào xuống ngựa mà thác.

Xong rồi Vương Thế Trân trở lại thì quân sĩ đều quì mọp dưới đất mà xin dung. Vương Thế Trân liền khiến chữa lửa và đi kiếm mẹ con Nhan Khả Ái. Khi kiếm đặng rồi thì mẹ con Nhan Khả Ái đồng lạy ta Vương Thế Trân và xin cho cái đầu của Trịnh Cao đặng mà tế Nhan Kế Hiền. Vương Thế Trân liền cho. Mẹ con Nhan Khả Ái mới đem đầu Trịnh Cao lại bên mồ của Nhan Kế Hiền đặt bàn tế tự khóc kể rất nên thê thảm.

Việc rồi Nhan phu nhơn mới nói với Vương Thế Trân rằng:

– Nếu mẹ con tôi mà ngày nay chẳng gặp đặng ân công ắt phải ôm hờn ngậm oán mà chịu chớ chẳng biết ngày nào mà trả cho đặng. Nay mẹ con tôi như vầy thì cũng chẳng biết lấy chi mà báo đáp cho ân công. Vậy nếu ân công chẳng hiềm quê kệch thì tôi xin dưng con gái tôi đây đặng sửa trắp nưng khăn làm thân tôi tớ mà đáp đền nghĩa cả cho ân công, xin ân công chớ phụ lời thiếp.

Vương Thế Trân liền nói rằng:

– Như phu nhơn có lòng đoái tưởng đến tôi dường ấy thì tôi đâu dám từ, ngặt vì ngày nay tôi chưa biết chắc là tôi phải ở đâu, chí tôi đương tang bồng trong võ trụ. Vả lại nếu nay mà tính gấp chi cho khỏi tiếng thị phi rằng tôi vì một tiểu thơ mà giết chết cả nhà họ Trịnh, thì anh hùng trong bốn bể há coi tôi ra gì? Vậy cho nên xin phu nhơn cùng tiểu thơ khá kiếm nơi mà ẩn dật, đợi một đôi năm tôi lập thân cho xong xả rồi sẽ tương sáu lễ mà đem tiểu thơ về chẳng là phải lẽ hơn?

Phu nhơn nghe nói như vậy liền kêu con mà nói rằng:

– Thôi ngày nay, oán chồng đã trả, thân cou tuy vậy chớ cũng đã xong rồi, mẹ xin con sau có về với Vương ân công thì cũng phải giữ cho trọn đạo thờ chồng, chớ khá học theo con nhà thất giáo mà lỗi đạo tùng phu thì cha mẹ nơi chín suối cũng chẳng an đặng.

Nói rồi liền khóc rống một hồi đoạn đập đầu vô mộ chí của chồng mà thác.

Nhan tiểu thơ cấp cứu chẳng kịp, liền nhào lăn nơi đất bất tỉnh nhơn sự. Vương Thế Trân thấy vậy liền dạy a hườn cứu cấp; chừng tiểu thơ tỉnh lại thì Vương Thế Trân khuyên giải rồi hỏi Nhan tiểu thơ.

– Vậy chớ còn bà con nơi nào không?

Nhan tiểu thơ thưa rằng:

– Tôi còn một người dì ở làng kế đây.

Vương Thế Trân liền khiến bọn lâu la chôn cất phu nhơn rồi biểu phải ở đó mà đợi, đừng rẽ ra, để ta đi đưa Nhan tiểu thơ đến nhà người dì rồi sẽ trở lại mà phân phát của tiền lúa gạo cho chúng bay về lo làm ăn đừng theo lập đảng tụ đoàn mà làm việc cướp giựt như vậy nữa. Dặn rồi thì đi với tiểu thơ và hai con a hườn tom góp đồ tế nhuyễn của tiểu thơ rồi thẳng qua làng kế đó mà tầm nhà người dì.

Đi tới trời sáng mới đến ranh Cẩm Giang Thôn, tầm kiếm hỏi han hồi lâu mới gặp nhà. Vương Thế Trân vào nhà liền thuật hết đầu đuôi và xin gởi gắm tiểu thơ ít năm rồi sẽ lo bề phối hiệp. Nói rồi liền từ giã bà dì ấy và tiểu thơ mà trở lại. Bà già cầm ở lại dọn cơm nước rồi mới lên đường, khi từ biệt nhau thì hai đàng đều rơi lụy.

Tiểu thơ liền làm một bài thơ mà tiễn biệt Vương công tử như vầy:

Ân tình hai chữ mới vương mang,

Phút chút bèo mây nghĩ nỗi càng.

Thiếp chốn cô phòng dầu an phận,

Chạnh người mưa nắng dặm quan san.

Vương công tử liền họa lại:

Ba giềng dồn dập một vai mang,

Chẳng đã đưa chơn bước lại càng.

Một bước một lo vì liễu yếu,

Quản bao thân kẻ vạn trùng san.

Thi họa vừa rồi thì hai đàng sái lụy mà phân tay.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!