Bến tre phong cảnh thi:
Thuở cựu thuộc về tỉnh Vĩnh Long,
Bến Tre cảnh tốt lại người đông.
Đại khoa cờ biển danh còn tạc,
Thổ sản điền viên lợi thạnh sung.
Đất lịch dân hào trong mấy rạch,
Xóm nhơn nhà nghĩa các nơi giồng.
Tổng làng viên chức đều nho nhã,
Tập tục mỹ thuần gốc cổ phong.
Bến Tre địa cảnh thạnh sung,
Hai mươi mốt tổng viên nông bĩ bàng.
Phân ra hai phía rõ ràng,
Phía Minh phía Bảo khắp ngàn tươi xinh.
Sao rằng phía Bảo phía Minh,
Phía Minh các tổng chữ Minh đứng đầu.
Phía bảo chữ Bảo đứng đầu,
Cù lao hai phía rộng sâu nhặt dày.
Phía Minh là phía Mỏ Cày,
Trên thì Ba Vát dưới rày Băng Cung. (10)
Phía Bảo là phía Mỹ Lồng,
Vơi vơi dặm thẳng thấu giồng Ba Tri.
Trải xem hai phía thổ nghi,
Dân nhờ vườn ruộng lắm khi an nhàn.
Bến Tre thành phố nghiêm trang,
Bên phan bên niết lớp lang tư bề.
Tàu đò thường bữa đi về,
Ghe đò các chợ chực kề rước đưa.
Ghe buôn lớp nhặt lớp thưa,
Đậu theo bực thạch vừa vừa chen nhau. (20)
Phố phường lớp trước lớp sau,
Lớp trước trù mật lớp sau dễ xài.
Hạ bạc sở nghệ lưới chài,
Tôm, cua, sò, vọp, bán hoài cả năm.
Mía, dừa, cây trái tiền trăm,
Hái rồi thì lại mùa nhằm hóa sanh.
An Hội sở tại châu thành,
Truy nguyên thuở trước đất ranh ba làng.
Đến sau nhập lại một làng,
Sắc thần ba đạo rõ ràng còn y. (30)
Ngày nay tục ngữ cũng kỳ,
Mỗi khi thề rủa tức thì vang rân.
Kêu rằng An Hội ba thần,
Anh linh hiển hích ông càn chứng tri.
Trải bao vật oán tinh di,
Giữ gìn lễ nghĩa phẩm nghi đủ bề.
Cựu tân hương chức chỉnh tề,
Nam thanh nữ tú đất quê người hào.
Từng trên nhà việc rộng cao,
Có mua các sách trữ vào sẵn nơi. (40)
Để khi thong thả nghỉ ngơi,
Cổ kim sự tích xem chơi lần mò.
Người quan võ tánh học trò,
Ngụ làng An Hội tên Nho họ Bùi.
Nay đà hưu trí nghĩ thôi,
Ưa coi truyện sách ham vui thơ tuồng.
Tính thành lập nghiệp bán buôn,
Lợi vào ước đặng tiền muôn bạc ngàn.
Tùy thời an phận thanh nhàn,
Vô kiêu vô siễm bảo toàn lâu xa. (50)
Bến Tre có một đờn bà,
Vợ ông phủ Dưỡng cũng là giàu sang.
Sanh ra con ngọc cháu vàng,
Bên trai bên gái hiển vang đông dầy.
Con trai Nguyễn Hữu Long nay,
Xe hơi mua sắm đổi thay thường thường.
Ba Tri lên xuống một đường,
Băm lăm ngàn thước dặm trường vơi vơi.
Đỡ cho hành khách thảnh thơi,
Với thơ ống trạm các nơi tổng làng. (60)
Khá khen Long thiệt có gan,
Tốn hao bạc vạn ngày càng rạng danh.
Bi chừ công chuyện hườn thành,
Dần dần may cũng lợi sanh đặng nhiều.
Quan Dinh điền thuở cựu triều,
Tên là Phạm Chánh tuổi cao phước dày.
Nay còn con cháu đông đầy,
Giàu sanh phấn phát sum vầy làm ăn.
Quan Đốc phủ sứ vinh thăng,
Quấc gia thưởng thọ mẫn cần ngày nay. (70)
Ngài là tên Nguyễn Văn Hay,
Bến Tre để lỵ từ ngày huyện quan.
Mười bốn năm, ở Trúc Giang,
Ăn chơi tiếng ngợi tổng làng gần xa.
Bính ngũ hăm mốt tháng ba,
Tiệc bày khánh hạ tại nhà nghiễm tôn.
Thủ, Huyện, Thông phán, Thông ngôn,
Với Cai phó tổng thạnh tồn lễ dung.
Biển vàng Vạn lý thanh phong,
Dây đai rực rỡ để trong Long đình. (80)
Các bàn Rượu Pháo nghiêm minh,
Mỗi bàn đều có sắm sanh lọng hầu.
Sinh ca nhạc trỗi giây lâu,
Một Phủ hai Huyện thêm sau mấy Thầy.
Lễ nghi đưa đến vang dầy,
Quan đốc khăn áo ra rày tiếp nghinh.
Chánh bồ quan chúc mọi đều,
Kể ra công cán bao nhiêu đành rành.
Nhung binh tùng sự Bắc thành,
Đường tên mũi đạn liều mình lửa than. (90)
Trước đà giải hết gian nan,
Trời nay hậu báo cho trang phước thần.
Tiếc ngài nhiều phước ít phần,
Ham vui quên lửng nổi tân khổ nhà.
Thiên kim táng tận đã đà,
Rủi may may rủi thế mà biết sao.
Các nơi Giồng Án cù lao,
Nhơn dân đông đảo thổ hào phì nhiêu.
Bến Tre đường nước quá nhiều,
Đi trong ngòi rạch dễ điều chở chuyên. (100)
Trầu xà lẹt, bán mãn niên,
Chuối, cau, dừa, quít, ghe liền ra vô.
Hỏi thăm các lái thương hồ,
Cái Mơn Giồng Sây tốt đồ vườn hơn.
Tiếng đồn một sở Cái Mơn,
Nhà thờ nhà phước nguồn cơn phú cường.
Trại cưa, lò gạch, nhà thương,
Vài trăm người ở thường thường gia công.
Phân minh thứ lớp ngoài trong,
Học may học chữ với cùng học thêu. (110)
Dừa cau vườn tược quá nhiều,
Địa linh nhơn kiệt mĩ miều người ta.
Truy nguyên tích trước đã xa,
Đất nhằm cuộc tốt trổ ra sĩ hiền.
Ông Trương Vĩnh Ký sanh tiền,
Song thân cội gốc ở miền Cái Mơn.
Hai bên yêm ái như đờn,
Trau dồi đạo đức nghĩa nhơn trong nhà.
Mỏ Cày cảnh rất hào hoa,
Người xưa danh giá có bà An Nhơn. (120)
Giàu mà tích đức tu nhơn,
Sanh con thi đậu Cử nhơn Tú tài.
An Nhơn phước đức lâu dài,
Cựu trào khoa hoạn ba trai đã thành.
Tân trào lại nối gia thinh,
Chiêu là chắt nội học hành nên danh.
Ra làm Đốc học Đông kinh,
Tánh thêm nho nhã thông minh khác thường.
Lưu truyền trung hậu từ lương,
Thơ hương kế mỹ văn chương báu nhà. (130)
Cầm đường thong thả huyền ca,
Ông Võ Văn Vạn thật là thanh liêm.
Tánh hay nho nhã khiêm khiêm,
Phủ trung vô sự yên điềm nhơn dân.
Mỏ Cày cai trị mấy xuân,
Tổng làng đều thảy cảm ân an nhàn.
Hồi hưu dưỡng lão vẹn toàn,
Bảo thân mình triết coi càng khéo khôn.
Minh Huệ tổng Thành Thiện thôn,
Đất nhiều vườn ruộng tục đôn mỹ thuần. (140)
Đẹp bấy nhà Cai tổng Xuân,
Ba đời làm tổng người xưng đức hiền.
Con là thầy Phó tổng Vàng,
Đương kim hiện tại giàu sang nhơn nghì.
Người đều thương kính yêu vì,
Bởi xua tích thiện lưu kì tử tôn.
Minh Huệ tổng, Phú Trạch thôn,
Tiên hiền vi phái tiếng đồn đều nghe.
Thuở kia Phú Trạch tư bề,
Đất oan rừng bụi cọp kề nhơn dân. (150)
Ông chủ Võ, có phước phần,
Tại mương Bà Liêu dần dần mở mang.
Dựng nên địa cuộc trong làng,
Thần từ miễu võ tốn càng định phương.
Tánh hay chiêu đãi hiền lương,
Sùng nho trọng đạo sửa đương mối giếng.
Âm minh nay đã tách miền,
Dấu roi công đức tiền hiền một ông.
Anh em bỉnh chánh thôn trung,
Đầu là nhơn hậu khiêm cung nết thuần. (160)
Con trai lớn, tên Duy Hưng,
Hội đồng địa hạt tánh từng ruột gan.
Giữ niềm thần tỉnh mộ khang,
Phụng nuôi từ mẫu chí an thủ thành.
Chuyên nghề nông mẫu cần canh,
Dạy em, con cháu, học hành nghĩa phương.
Truy nguyên cựu tích tỏ tường,
Thuở hai ông cố lắm đường gian nan.
Ông cố nội, lập Tú sang,
Còn ông cố ngoại lập làng Tân Hương. (170)
Qui mô vĩnh viễn cữu trường,
Để chocon cháu thạnh cường khéo khôn.
Minh Phú tổng, Đại Điền thôn,
Ông Nguyễn Tấn Quới gia môn đức hiền.
Làm cai Tổng đã kinh niên,
Công lao giúp nước nhọc siêng nhiều bề.
Sửa sang phong hóa chỉnh tề,
Các làng mỹ tục chẳng hề sai ngoa.
Giáp thìn trận bão tháng ba,
Bốn ngàn giạ lúa đem ra chẩn bần. (180)
Tu nhơn tích thiện nhiều lần,
Quấc gia thưởng thọ vinh thăng Huyện hầu.
Gốc xưa phước đức bền lâu,
Tử tôn lang quế ngày sau nối dài.
Sanh Nguyễn Tấn Hoài là trai,
Ruột gan trãi đãi ít ai dám bì.
Tánh hay kiến nghĩa đương vi,
Trọng người khinh của bất kỳ gần xa.
Nghề văn xảo biết Lang-sa,
Võ thì học đủ võ Ta võ Tàu. (190)
Mình không ỷ thế sang giàu,
Nhứt sanh hào hiêp người âu biết lòng.
Chức hàm Địa hạt hội đồng,
Quan yêu dân chuộng bởi lòng liệt oanh.
Thượng ti tuyển cử tánh danh,
Sai qua đấu xảo bên thành mạt-sây (Marseille).
Tan bồng hồ thỉ ngày nay,
Bốn phương cung kiếm phỉ rày chí trai.
Thảo ngay hai chữ dồi mài,
Danh thơm tạc để lâu dài hiển vinh. (200)
Năm rồi ứng cử ra tranh,
Hội đồng quản hạt nên danh Biên Hòa.
Gặp cơn tăng thuế điền gia,
Đồng lòng chống chỏi rủi đà từ hưu.
Cho hay sự tại nhơn mưu,
Gẫm âu thiên mạng chẳng cưu dạ phiền.
Tốt thay phong cảnh Đại Điền,
Tục hay nhơn nghĩa xóm giềng tương đôn.
Cũng là một chỗ đại thôn,
Có ông cự phú tiếng đồn hương Liêm. (210)
Tên bộ là Huỳnh Ngọc Khiêm,
Tuổi dư bảy chục chỉnh nghiêm cửa nhà.
Vợ chồng lương thiện từ hòa,
Song song trường thụ ông bà đủ hai.
Sanh con bên gái bên trai,
Nghi gia nghi thất kim giai trưởng thành.
Bởi nơi phước đức làm lành,
Tử tôn phát đạt hiển vinh nối đời.
Nhơn cơ nghĩa chỉ không dời,
Tu thân hành thiện lộc trời bền lâu. (220)
Bến Tre nước chảy sông sâu,
Các đường lộ cái có cầu lại qua.
Thái bình thạnh trị lâu xa,
Dấu xưa phong nhã roi mà đến nay.
Ông Lương Khắc Ninh rất hay,
Nhựt trình Nông Cổ khéo bày Quấc âm.
Năn năm Chủ bút lao tâm,
Dựng cờ nơi chốn từ lâm một mình.
Tuy là họa hổ vị thành,
Tài bồi giáo hóa đặng danh nhãn tiền. (230)
Truyện thơ nay dịch liền liền,
An Khương, Chánh Sắt roi truyền thêm hay.
Thảm thay Chánh Chiếu ngày nay,
Ra làm Nông Cổ chưa đầy mấy trăng.
Bởi vì biếm nhẽ lằng xằng,
Khua ba tấc lưỡi họa căn nhương thành.
Đặng Thúc Liêng người trâm anh,
Giúp việc Nhà nước đã đành có công.
Mang tai chuyện khéo khi không,
An Khương hiện tài cũng đồng như Liêng. (240)
Bi chừ Nông Cổ mối giềng,
Lê Trung quản hạt thay quyền chủ nhơn.
Nguyễn Chánh Sắt tỏ nguồn cơn,
Làm phó chủ bút nhờ ơn thánh hiền.
Miễu chùa trong hạt các miền,
Lễ nghi tế tự mối giềng theo xưa.
Cuộc đời trải mấy nắng mưa,
Chòm nhơn xóm nghịa còn lưa bộn bàn.
Tang, hôn, phép tắc rõ ràng,
Vãn lai thù tạc kĩ cang đẹp tình. (250)
Phú Hưng địa cảnh rất xinh,
Kêu giồng Đất Đỏ hiển linh sẵn dành.
Nhà họ Nguyễn phước đức lành,
Nay còn khỏe mạnh trâm anh bộn bề.
Nguyễn Khắc Thuận Nguyễn Khắc Huề,
Anh em sung túc vinh huê đành rành.
Thuận làm cai tổng Bảo Thành,
Huề làm giáo thọ hiển danh đương đời.
Tử tôn lang quế nhiều người,
Gốc xưa tích thiện rạng ngời gia viên. (260)
Chợ Hương Điểm chùa Bà Thiên,
Phụ cơ cho thuốc cũng riêng sự kì.
Bà Thiên Hậu đức từ bi,
Thương người bịnh hoạn hiển cứu người.
Bốn phương cúng biết mấy mươi,
Lửa hương sum thạnh tiếp mời rất đông.
Bảo Lộc tổng Tân Thạnh Trung,
Có nhà họ Nguyễn thật dòng nho gia.
Cai tổng Nguyễn Hay là cha,
Tiếng người phảm hạnh gần xa ngợi đồn. (270)
Lập chợ Tan Thanh Trung thôn,
Dấu roi sung túc lưu tồn đến nay.
Người đều kêu chợ Tổng Hay,
Vợ tu nhơn đức chồng say học hành.
Sanh con nam nữ trưởng thành,
Hậu đức hiền lành một cặp anh em.
Nguyễn Trung Hậu ngoài tên Nghiêm,
Nối làm cai tổng khiêm khiêm chỉnh tề.
Nguyễn Hữu Đức ngoài tên Huê,
Đương kiêm phó tổng phu thê thuận hòa. (280)
Gốc noi chữ nghĩa truyền nhà,
Phụ từ tử hiếu huynh hòa đệ cung.
Tốt thay nhà ở theo giồng,
Hết giồng tới ruộng ruộng giồng cao lương.
Ba Tri phong thủy một phương,
Phan công Thanh Giản cố hương lưu tồn.
Quê ngài ở Bảo Thạnh thôn,
Đại khoa Tấn sĩ tiếng đồn Nam Trung.
Phải trang sư phạm nho tông,
Kinh lân sử mã siêng dùng sửa trau. (290)
Mày xanh đến lúc bạc đầu,
Thờ ba trào chúa một câu trung thành.
Biể Cần thuở dợn sóng kình,
Tiếc mao Khâm mạng trấn thành Vĩnh Long.
Kiến cơ biết sẵn nơi lòng,
Chủ trương đã định ở trong lẽ trời.
Xiết bao sầu thảm cuộc đời,
Y khôn mở miệng hở lời với ai.
Thị phi phú mặc tiếng ngoài,
Ngài cam một giấc dạ đài thì thôi. (300)
Nhịn cơm chịu chết cho rồi,
Thung dung tựu nghĩa làm tôi phận toàn.
Phủ thờ nay ở tại làng,
Mộ phần bia chí rõ ràng tạc ghi.
Đạp thay phong thổ Ba Tri,
Tên kêu Chợ Đập nguyên vì cớ đây.
Thuở ấy làng An Hòa Tây,
Có ông xã Hạc dựng gầy thị trung.
Thường thường qui tụ cũng đông,
Chợ ngoài tên đặt kêu dùng đã lâu. (310)
Khéo cho tạo hóa cơ cầu,
Khiến ra thay đổi biển dâu cuộc đời.
An Bình Đông xã một nơi,
Có cây da lớn nghỉ ngơi bộ hành.
Bán buôn hàng vặt rập rình,
Kẻ ngồi người đứng thích tình không đi.
Ông cả Kiểm, thấy chuyện kỳ,
Tới nơi cây ấy lập vi thị truyền.
Chỗ nhằm cuộc đất linh thiên,
Như ai xui giục người tiêng tấm lòng. (320)
Càng ngày càng thạnh càng sung,
Chợ ngoài thưa nhóm túng cùng nổi sân.
Đốn cây đắp đập cản ngăn,
Không cho ghe cộ vào băng An Bình.
Gây ra cừu oán đấu tranh,
Kiện nhau tới tỉnh sự tình lôi thôi.
Thế thần ông Hạc có rồi,
Kiểm bèn toan liệu với đôi ông làng.
Kinh đô ta kiếp băng ngàn,
Ngự tiền trạng bạch ngai vàng xử phân. (330)
Châu phê đập chẳng khá ngăn,
Cho ghe buôn bán để dân ra vào.
Phước phần trời đã định trao,
Ông Thái Văn Kiểm phú hào vĩnh vi.
Tục ngữ rằng già Ba Tri,
Ấy là minh chỉ vậy thì Thái ông.
Kiện cho thấy mặt cửu trùng,
Trong trào ngoài quận người đồng ngợi danh.
Ông Kiểm tánh hay nhơn lành,
Vợ thêm hiền đức cửi canh mẫn cần. (340)
Bày nghề dệt lụa dần dần,
Đờn bà con gái tập lần khéo không.
Lụa Ba Tri, có tiếng đồn,
Bởi bà Cả dạy lưu tồn đến nay.
Ông bà hòa thuận sum vầy,
Ninh hinh roi dấu đặng rày ba trai.
Viết, làm Bát phẩm văn đai,
Thạnh, làm Cửu phẩn là hai đã đành.
Hào, làm Đội nhứt tỉnh thành,
Ông Hào, ông Thạnh, âm minh vội về. (350)
Viết, thì sĩ hạnh chỉnh tề,
Nghĩa phương giáo huấn đề huề nhi tôn.
Nuôi cháu dạy đã lớn khôn,
Có hai người đặng danh tồn đương kiêm.
Thái Ngưng nho nhã khiêm khiêm,
Tục kêu Bồi Mển tánh liêm đức hiền.
Sửa nên phong hóa xóm riềng,
Tế thần nhằm lễ tự tiên phải nghì.
Ông Thái Hữu Võ đương vi,
Vinh thăng cai tổng Ba Tri bây giờ. (360)
Bấy năm sửa soạn cõi bờ,
An Bình Đông xã ơn nhờ mở mang.
Ba hàng phố chợ nghiêm trang,
Hai hàng cất dọc một hàng ngang qua.
Giữa ngay hội quán ngó ra,
Từng trân lầu các coi đà rộng thông.
Rạch Ba Tri, trước cạn cùn,
Xin quan đào giáp qua giồng Ba Lai.
Đất nhờ kinh ấy mới khai,
Khỏi lo oan phế ruộng hai bên bờ. (370)
Tiện dân đặt họp thả lờ,
Ghe buôn qua lại cũng nhờ làm ăn.
Hợi niên huyện Doãn vinh thăng,
Đổi qua cai trị nhơn dân Mỏ Cày.
Chánh lành đương hẫy thơm bay,
Chưa chi lại đổi về ngay Sài Gòn.
Mỏ Cày người bụng sắc son,
Đặt bài ái mộ lời còn chép ghi.
Mấy trăng hoạn lộ bôn trì,
Ở toàn quan thượng viễn kỳ thần hôn. (380)
Trời cho danh phận vuông tròn,
Hồi hương ý cẩm sông non xứ mình.
Quấc vương thủy thổ chạnh tình,
Kêu làng Bảo Thạnh giảng minh chuyện nầy.
Tưởng niềm nguồn nước cội cây,
Việc làm phải nghĩa xưa nay ai dành.
Mả ông Sùng Đức tiên sanh,
Với ông Thanh Giản nằm ranh đất làng.
Hai ông sĩ đức song toàn,
Đáng trang phối hưởng Thành hoàng anh linh. (390)
Phụng nghinh Thần chủ tới đình,
Viên quan hương chức kính thành đới trai.
Ba dòng trần thiết cấp đai,
Trâu heo lễ tạ an bài phẩm nghi.
Nam kỳ duy xứ Ba Tri,
Văn chương lễ nghĩa gốc vì Phan công.
Roi truyền chữ hiếu chữ trung,
Lớp sau ông Viết giữ không đổi dời.
Ông Ngưng, ông Võ nối đời,
Giữ gìn mô phạm rạng ngời gia thinh. (400)
Ngưng đà về chốn âm minh,
Võ thăng Tri phủ qua thành Long Xuyên.
Mai Văn Hộ tánh nhơn hiền,
Chánh tổng bảo Thuận đương quyền kỷ cang.
Các ngôi chùa miễu các làng,
Nội trong phần tổng lịch sang chỉnh tề.
Tuy là phong cảnh xứ quê,
Lễ nghi nhơn nhượng phủ phê trong ngoài.
Người làm đầu chẳng đơn sai,
Vậy nên phong tục hóa lai mĩ thuần. (410)
Việc quan giữ nết mẫn cần,
Vinh thăng nhứt hạng có phần nghiễm tôn.
Xưa ông huyện Sĩ tiếng đồn,
Chiêu hiền đãi sĩ khéo không ai bì.
Phong lưu nho nhã nhơn nghì,
Nơi Hoằng Trị phủ người thì biết danh.
Ngài đà tách cõi diêm đình,
Tiếng còn roi dấu châu thành Bến Tre.
Ngày nay hai cháu chỉnh tề,
Có Nguyễn Công Cẩn phu thê sang giàu. (420)
Tiếng tăm chữ nghĩa lẹ mau,
Đứng tòa Biện lý đã lâu công trình.
Nhớ xưa trung hậu chí tình,
Tại tổng Bảo Trị tiếng minh hai thôn.
An Hòa Tây, Tân Hòa thôn,
Nhơn dân háo nghĩa danh đồn Nam Trung.
Hai làng người thảy có lòng,
Sắm ghe chở gạo nguyện tùng quan quân.
Cao hoàng sắc nhị thôn dân,
Kêu binh Võ cự vệ phân nhứt nhì. (430)
Ngọn rau tấc đất trọng nghì,
Đương cơn biến loạn truy tùy thánh vương. (432)