Năm Nhâm dần, tháng giêng ngày vọng,
Nhơn lúc nhàn, võ lộng bút nghiên.
Dạo Nam kỳ, sáu tỉnh sơn xuyên,
Xem nhơn vật, đủ miền mọi chỗ.
Ơn tứ hải, đệ huynh điều độ,
Giúp hành trình, phí lộ kim ngân,
Hơn năm dư, chép thảo lần lần,
Thành một cuốn, xa gần các hạt.
Cách đặt dùng, quốc âm lục bát,
Cộng hai mươi hai hạt nhỏ to. (10)
Biết bao nhiêu, công khó đắn đo,
Cứ việc thật, không trò thêm bớt.
Giọng quê kịch, nhiều lời thưa thớt,
Vận dưới trên, non nớt chưa liền.
Tự Vũng Tàu, dĩ chi Hà Tiên,
Qua Châu Đốc, xuống miền Sa Đéc,
Tới mỗi hạt, trải chơi thăm xét,
Hỏi đon ren, mới biết ngọn ngành,
Những lớp xưa, người trước có danh,
Với thổ sản, dân tình phong tục.(20)
Quan giám khảo, xem tường trong đục,
Lấy đậu rồi, mấy lúc chưa in.
Đinh Thái Sơn, có dạ thương tin,
Chịu hao tốn, ấn hành đãi hậu.
Gọi là để, khóa đồng tập ấu,
Đâu dám rằng, tú khẩu cẩm tâm.
Lẽ xưa nay, thủy bất tại thâm,
Có rồng ở, thì đầm linh hiển.
Phận già cả, tiếc vì kinh điển,
Đã bấy lâu, rừng biển minh mông.(30)
Dầu khen chê, miệng thế thường đồng,
Phò danh giáo, xúc công tiểu bổ.
Chẳng phải bì, Mã Thiên Ban Cố,
Dấu sử xanh, kim cổ lưu truyền.
Song cũng là, cờ chím nước tiên,
Roi sự tích, niên niên trường cữu.(36)
Hây hây cảnh tượng trời xuân,
Thái hòa võ trụ nhơn dân lạc tình.
Bút nghiên giỏi dấu gia đinh,
Diễn ca phong tục lời mình đặt ra.
Già quê giọng nói thiệt thà,
Giải khuây may cũng một và trống canh.
Nam kỳ cảnh rất lịch thanh,
Đường sông dặn dịch đất bình lăng xăng.
Đông Nam hai phía địa phần,
Giáp ra nam hải chẳng gần chẳng xa. (10)
Tây giáp vịnh biển Xiêm La,
Đông Bắc Bình Thuận ấy là giáp ranh.
Phía bắc cả ngàn rừng xanh,
Giáp Mên với Mọi tác quanh nẻo đường.
Vịnh Xiêm ngoài phía đông phương,
Hòn Tràm có đặt sở Thương chánh tòa.
Chỗ là giáp cõi Xiêm La,
Quan quân dinh dãy cửa nhà vẻn vang.
Cổ Rồng hòn rất khô khan,
Núi giăng lúm khúm cả ngàn cây dương. (20)
Dân nghèo bãi biển một phương,
Làm ăn nơi đó quen đường ra vô.
Hải sâm, mắm ruốt, mực khô,
Đầu mồi, sứa muối, là đồ trời sanh.
Vũng Thơm vịnh lớn minh minh,
Khỏi nơi Hòn Ráng tới quanh Hòn Nần.
Ngang qua Cần Vọt địa phần,
Ngoài thời Phú Quốc cũng gần đâu xa.
Một lèo qua mũi Gành Bà,
Rồi liền ngó thấy cửa là Hà Tiên. (30)
Hòn Chông Hòn Đất liền liền,
Hòn Tre Hòn Ráy ấy miền Kiên Giang.
Cửa biển Ông Đốc ngó ngang,
Thời thấy Hòn Chuối một hàng tâm tâm.
Hòn Khoai giữa biển khơi nằm,
Mối đường hải đạo chỗ nhằm yếu xung.
Bấy lâu hao phí nhơn công,
Tháp xây đèn vọi vừa xong mới rồi.
Mi – Sên (Michel) cần cán vô hồi,
Đốc công mấy tháng tài bồi lực đa. (40)
Tàu ghe tăm tối vào ra,
Nhắm chừng làm chắc khỏi sa lố cồn.
Hòn Khoai là chỗ thon von,
Mũi nước chảy mạnh bon bon vận đào.
Trên hòn suối chảy rao rao,
Nước trong ngọt tợ mưa dào thu thiên.
Dân ra chuyên chở liền liền,
Cà Mau uống nước nhờ miền Hòn Khoai.
Cửa Lớn Vàm Nho ra hoài,
Gành Hàu qua khỏi mé dài Mỹ Thanh. (50)
Ngó ra ngoài biển minh minh,
Mù mù trời nước thấy hình Côn Lôn.
Cao hoàng thuở trước viễn bôn,
Bị ngươi Nguyễn Huệ thói chồn manh tâm.
Xảy đâu mưa gió ầm ầm,
Cù Phong tật khởi loạn trầm tặc châu.
Khen cho máy tạo cơ cầu,
Chuyện trăm năm đã cách lâu bao giờ.
Nay còn non nước sờ sờ,
Dấu xưa hãy để cõi bờ một phương. (60)
Ước hai muôn thước bề trường,
Hoành năm ngàn thước tịch thường ngàn dân.
Lớp thời chài lưới làm ăn,
Lớp thời trồng rẫy ngày lần tháng qua.
Quan quân dinh dãy mấy tòa,
Ngục đường điển xá đều là oai nghi.
Tàu đó tháng ghé hai kỳ,
Xúp lê (coufller) hiệu lịnh vậy thì thổi vang.
Nam kỳ tù phạm hơn ngàn,
Đày ra ở đó khốn nàn xiết đâu. (70)
Xưa nay thiện ác đáo đầu,
Mình làm mình chịu ai hầu chịu cho.
Nhìn xem hình ảnh đơn cô,
Vội cao bóng thỏ bóng ô bời bời.
Nhìn xem cá nước chim trời,
Xa xuôi xứ sở ngậm ngùi vợ con.
Khi sao vật lạ món ngon,
Chừ sao muối cục cơm hòn thế ni.
Khi sao viễn tẩu cao phi,
Chừ sao ly tiết một khi dập dồn. (80)
Minh mông kìa vực nọ cồn,
Nát gan cố quốc lạnh hồn tha hương.
Nặng nề công chuyện thảm thương,
Trông ra Bãi Cạnh đêm trường vọng đăng.
Năm canh trằn trọc xăng văng,
Sáng rồi linh láng biển giăng chưn trời.
Làm người cẩn thận ở đời,
Chớ lờn phép nước thảnh thơi hoài hoài.
Dữ dằn thì phải mang tai,
Trong vòng khổ sở kêu nài với đâu. (90)
Khuyên cùng ai nấy lo âu,
Cứ trong bổn phận nhớ câu nhơn nghì.
Dẫu mà gặp lúc hiểm nguy,
Cũng đừng đổi dạ phi vi lằng xằng.
Thiệt thà chắc chắn làm ăn,
Hết cơn bĩ cực tới chừng thới lai.
Giữ gìn nghệ nghiệp sanh nhai,
Xưa nay họa phước chẳng sai với mình.
Thẳng qua mấy độ thủy trình,
Khỏi nơi ba Động lại gành Băng Cung. (100)
Ba Lai cửa sóng điệp trùng,
Đại, Tiểu, ngoài có cạn cùng vọng đăng.
Đi đêm nhắm đó làm bằng,
Khỏi nơi Lội Rạp tới chừng Đồng Tranh.
Cần giờ cửa biển có danh,
Yết hầu cứ hiểm trời dành sẵn cho.
Gió xuôi buồm thả cánh cò,
Ra ngoài Cửa Lấp tới đò Xích Ram.
Địa đầu giáp giái phủ Hàm,
Nơi Cù Mi xứ có làm trạm canh. (110)
Sông thời bốn cái có danh,
Đã sâu mà rộng và xanh trong thường.
Phía Đông ba tỉnh các đường,
Sông đường Vàm Cỏ sông đường Đồng Nai.
Phía Tây ba tỉnh rộng dài,
Hai ngả trong ngoài Tiền, Hậu, nhị giang.
Vàm Cỏ nguồn ở Mên mang,
Chia làm đôi dãi dọc ngang rõ ràng.
Một dải Tây Ninh, Trảng Bàng,
Kêu sông Bến Lức Thuận An ấy là. (120)
Một dải kêu sông Hưng Hòa,
Vũng Gù vậy mà qua thấu Bắc Chiên.
Gội nhuần hai ngọc dòng quyên,
Chảy xuống Lôi Rạp thông liên mọi đàng.
Đồng Nai nguồn Mọi cao sang,
Chảy xuống hai hàng, hàng Đại, hàng Sâm.
Kề bên có miễu lâu năm,
Tên miễu Thượng Đẳng u thâm linh kỳ.
Nghề rừng những kẻ ra đi,
Xuống lên vái cúng đều thì sợ ghê. (130)
Đường Sứ chảy xuống một bề,
Hiệp với Nhà Bè sông gọi Phước Long.
Nhập với Tân Bình một sông,
Tân Bình nguồn gốc trên Giồng Mên hoang.
Chảy xuống các ngả nhẩy tràng,
Cái Cùng, Dầu Một với đàng Lái Thiêu.
Thủ Đức, Đồng Cháy, nhẩy đều,
Lên xuống dập dìu đông đảo tàu ghe.
Hiệp với Đồng Nai, Nhà Bè,
Chảy ra Cần hải một bề phăng phăng. (140)
Sông Sau, Sông Trước nguồn căn,
Gốc trên Lèo thượng sông rằng Cửu Long.
Tiếng Mên kêu chữ Mê Công (Mékong),
Bên núi Tây tạng chảy rông sang Mường.
Chảy xuống Nam Vang một đường,
Chia làm ba ngả nước thường ra vô.
Một ngả vào thấu Biển Hồ,
Dân nhờ mùa hạn cá khô muôn vàn.
Một ngả kêu là Hậu Giang,
Chảy về Châu Đốc nẻo đàng liêng liêng. (150)
Luôn xuống Vàm Tấn, Ba Xuyên,
Phân ra các dải lưỡng biên bộn bàn.
Một ngả kêu là Tiền Giang,
Cái Vừng chảy xuống liền sang Long Hồ.
Rồi liền luôn xuống Mỹ Tho,
Chảy luôn ra biển quanh co rạch ngòi.
Biết bao xuống vịnh lên doi,
Đường chuyên ngả chở hẳn hòi dể duôi.
Thạnh suy tiêu tưởng mấy hồi,
Nơi bằng nơi lở chổ bồi chổ chinh. (160)
Sơn xuyên tú khí chung linh,
Kể trong sáu tỉnh chổ danh hãy nhiều.
Thổ nghi tập tục biết nhiều,
Nói sơ đại lược ít điều ra sau.
Đổi thay mấy độ biển dâu,
Gẫm cơ tạo hóa nhiệm mầu chỉnh ghê.
Minh vương chúa Nguyễn trào Lê,
Đất Mên chiếm cứ đem về Bản thơ.
Lần lần thâu choán cõi bờ,
Nam kỳ sáu tỉnh thành cơ nghiệp mình. (170)
Lòng dân chánh nước chưa bình,
Trời xuôi Đại Pháp điều đình phong cương.
Kỉnh dinh bốn chục năm trường,
Tỉnh, thành, phủ, huyện đo lường chia ra.
Hai mươi hai hạt gần xa,
Cầu, đường sắp đặt công đà nhọc siêng.
Dây thép thủy bộ liền liền,
Tàu đò xe lửa chở chuyên nhẩy tràng.
Càng ngày mỗi việc mở mang,
Cho dân khẩn phá đất hoang muôn trùng. (180)
Nơi nơ sàm uất rộng thông,
Cọp voi thú dữ hãi hùng lánh xa.
Tàu ô gành bãi vô ra,
Nhiểu nhương ghe cộ cũng là lắm khi.
Nghe đâu bắt đặng tức thì,
Đã đôi ba chiếc trốn đi ngã nào,
Sợ oai chúng nó bôn đào,
Mấy năm nay đã ba đào yến thanh.
Dưới sông bặt dấu côn kình,
Trên bờ vui thú thích tình làm ăn. (190)
Sum vầy các sắc nhơn dân,
Sanh nhai nghệ nghiệp bổn căn vững vàng.
Toàn quyền tổng thống ngôi sang,
Đông Dương mối việc ngổn ngang tay dùng.
Bình Thuận thành, đến Thăng Long,
Nước nhà bảo hộ ngoài trong an nhàn.
Đại Nam Việt quốc vững vàng,
Vua là Thành Thái hiệu Hoàng đế nay.
Nguyễn trào công đức nặng dày,
Từ Gia Long trước những ngày trung hưng. (200)
Cậy nhờ sáu tỉnh binh dân,
Dựng nên Đế nghiệp tân cần lưu lai.
Ấy là bờ cõi phía ngoài,
Còn vua Chơn Lạp rộng dài phía trong.
Trị vì bốn chục dư đông,
Rô-Đôm (Norodom) danh hiệu chính trùng vui chơi.
Ơn nhờ bảo hộ nơi nơi,
Nước Mên toàn cảnh thảnh thơi xa gần.
Tên ngoài tục gọi Hoàng Lân,
Giáp thìn ngài đã giá băng mới rồi. (210)
Ông Hoàng Nhì nối lên ngôi,
Sửa sang sắp đặt các tôi triều đình.
Xi Xa Tha (Sisatha) ấy là danh,
Noi theo qui củ thái bình dấu xưa.
Nam Vang hòa thuận gió mưa,
Dân đều vỗ bụng sớm trưa no lòng.
Nam kỳ thống đốc một ông,
Làm đầu sáu tỉnh thạnh long tước quyền.
Hạt nào hạt nấy đều riêng,
Bên phan bên niết mối giềng sửa đương. (220)
Sĩ, Công, Hình, Hộ, Binh, Thường,
Nơi nơi phần trị phô trương phải bề.
Hội đồng Nghị viện chỉnh tề,
Dân an bất động cổ bề chiến chinh.
Chánh chung giàu nước mạnh binh,
Cõi Nam triệu chúng trị bình âu ca.
Ngụ lời cảm khái ngâm nga,
Biết đâu nói đó lựa là thấp cao.
Nôm na lục bát tầm phào,
Cứ theo chuyện thật diễn vào nên câu. (230)