Trên con đường hẻm chạy quanh co ven những khu rừng sâu thẳm, ven những rìa núi gập ghềnh khi thì cheo leo, khi thì khuất khúc, một đoàn kỵ mã phi nước đại làm cho bụi bay sỏi bắn mù mịt, trông xa như một vừng mây trắng xóa phất phơ bay giữa đám lá cây um tùm xanh biếc, che khuất một góc rừng vẩu. Đoàn kỵ mã ấy đi nhanh lắm, không hề dừng lại nghỉ ngơi một phút cỏn con nào.
Suốt một ngày, ngựa gắng công, người cố sức, mà chỉ có thể vượt nổi non sáu chục cây số, không thể hơn được nữa. Như thế đã là nhiều lắm, bởi vì so với các hành khách thường, đoàn kỵ mã kia đi nhanh gấp đôi: trên những quãng đường núi hiểm hóc dù có ngựa hay, một ngày cũng chỉ đi được ba chục cây số đã là già lắm. Nếu đường đất bằng phẳng như đường nhựa dưới tỉnh, một con ngựa tốt có thể đi một trăm cây số là thường, nhưng ngặt nỗi: hết lên dốc thì xuống đèo, hết nhảy suối đến vượt khe, mà ngựa lại không phải là một vật ép đi nhanh được mãi! Ví không thương đến nó, bắt nó phải chịu nhọc nhằn quá, thì gày hôm sau thường khi phải bỏ nó lại để nó dưỡng bệnh hoặc phải đem chôn xác nó. Ngựa vốn không phải là máy, những kẻ sành nghề chơi ngựa chẳng bao giờ bắt ngựa làm việc quá chừng. Những quãng đường núi gập ghềnh, nếu muốn vượt qua cho mau chóng, phi dùng ngựa, không dùng được một thứ xe cộ nào cả. Xe đạp, xe mô tô, không có đủ sức lên những cái dốc thẳng vút xuống những con đèo dài ngoằng ngoẵng, hoặc nhảy qua những khe suối chạy ngang đường. Nói đến ô tô, thì lại càng chán nữa! Tuy thứ xe ấy có khỏe, có tốt, nhưng nó không thể dùng được để vận tải mình trên những quãng đường núi nhỏ hẹp, gồ ghề, nhiều khúc khuỷu. Giá có thể dùng được ô tô. Đèo Lầm Khẳng đã không phải nhờ đến sức ngựa! Mà cũng vì đi ngựa nên suốt một ngày, anh ta chưa qua hết địa phận xứ Mường. Chàng họ Đèo rất lấy làm lạ, tự nghĩ: “Quái! Từ Thạch Thành đến Bỉm Sơn, chỉ có độ hơn năm mươi cây số, đáng lẽ ta đã ra khỏi biên giới miền đồng rừng từ lâu, sao giờ đây, vẫn còn lẩn quất ở chốn sơn lâm này mãi?” Chàng bèn hỏi mười người lính theo hầu: họ cũng đều ngơ ngác, không hiểu thế nào lại ra như vậy cả. Lầm Khẳng, phút chốc, thấy tâm thần rối loạn: chàng bồi hồi lo sợ cho sinh mệnh của chàng.
Khi mặt trời xế núi, ngọn gió rừng nổi lên, thổi tung lá khô tan tác, phả vào mặt cả đoàn kỵ mã, làm cho ai nấy đều ái ngại, rùng mình. Họ nhớ rằng phi ngựa đã một quãng xa, mà suốt dọc đường không từng thấy căn nhà nào cả. Đến xâm xẩm tối, tất cả đoàn cùng bồn chồn kinh khủng, chỉ lo không tìm được chỗ trú ngụ ban đêm, thì có khi khó lòng, sáng hôm sau, còn trông thấy ánh mặt trời nữa. Đương lúc đều chung một mối băn khoăn, ghê rợn, may sao Đèo Lầm Khẳng, tinh mắt, nhận thấy nẻo xa một cái nhà sàn đứng bơ vơ trơ trọi dưới chân đèo. Đoàn kỵ mã bèn rảo bước đi lại phía nhà sàn ấy. Tới nơi, trời vừa tối mịt, gần không rông rõ mặt nhau.
Căn nhà kia không vững trãi, lịch sự, nhưng tựa hồ hiu quạnh, không có ai ở cả. Bởi lẽ khi cả đoàn ở lại chẳng ai được nghe một tiếng động cỏn con nào tự trong nhà ấy đưa ra. Họ đều lấy làm kỳ dị. Có lẽ chủ nhà là một gã tiều phu hiện còn bận gánh củi, chưa kịp về nhà: chớ nếu nhà kia không có chủ, sao bực thang lên sàn vẫn đương còn bỏ xuống, chưa đem cất lên trên? Mà sao dưới sàn lại có đủ bò, lợn, gà, vịt, nằm ngổn ngang trên mặt đất? Trông lên mé trên, cửa trước còn mở toang cả hai cánh: thấp thoáng mé trong lại hình như có một cái bàn, một cái chõng: trên bàn co1 mâm bát giống như trong một quán hàng nước đựng ở dọc đường. Có lẽ đây là một cái quán thật!
– Bà hàng ơi! Bà hàng! Có thể cho chúng tôi ngủ trọ một đêm không hở?
Trong nhà vẫn không thấy có tiếng động. Nhưng một giọng nói lanh lảnh, giọng nói đàn bà, một io5ng nói nghe gần mà như xa, cao mà như thấp, tựa hồ véo von từ cõi vô hình đưa lại, một giọng nói biết bao em đềm thấm thía, sao cũng lạnh lẽo, buồn rầu, một giọng nói sang sảng thánh thót lọt ra, rót nhẹ vào tai đoàn kỵ mã lỡ đường, làm cho bọn họ tự nhiên, không hiểu tại vì đâu, bỗng thấy ghê ghê rờn rợn, lạnh đường sau gáy. Cả đoàn đứng tụ dưới đất, nhìn nhau, ngần ngại. Bởi lẽ tiếng ai kia vẫn vẳng ra chào mời vồn vã, mà bóng hồng, tuyệt nhiên, không được thấy ra vào. Đoàn kỵ mã dùng dằng, chưa quyết định. ra đi cũng dở dang khó xử, vì trời đã tối lắm rồi, đường đất lại nhiều nguy hiểm, ở nán lại, thì không khéo sa vào một căn nhà mổ vắng vẻ, nằm chung với chiếc quan tài! Tiếng oanh thỏ thẻ kia, nghe lanh lảnh như tiếng ma cám dỗ. Bởi cớ ấy, cả đoàn không dám tiến, cứ bẩn thần mân mê dây cương ngựa, giết thời giờ.
Giọng nói trong nhà sàn, bỗng đâu lại lọt ra đằm thắm:
– Mời các ông cứ vào đây, không ngại! Em đang còn bận dở tay tí chút, thày mẹ em lại đi vắng chưa về. Xin các ông cứ vào, cho em thất lễ một vài phút, sắm sửa cho gọn gàng, rồi sẽ xin ra tiếp rước.
O73 với ma còn hơn quay đi hiến thân làm mồi cho hổ, Lầm Khẳng nghĩ vậy, mạnh bạo bước lên thang, vừa bước, vừa quay lại bảo anh em trong bọn:
– Anh em cứ vào! Một vài người đem buộc ngựa cho chắc chắn, xong ta lên cả dây hội họp nghỉ ngơi! Chúng ta hơn mười người,còn sợ gì mà phải rụt rè, vô lý thế?
Lời nói hăng hái của chủ đoàn làm cho cả bọn cùng thấy tâm thần phấn khởi. Sau khi đã buộc ngựa chắc chắn ở một góc gậm sàn, cả mười một người mạnh mẽ bước lên thang, tiến vào trong quán. Thoạt bước vào, ai nấy đều thấy mạch máu tựa hồ hơi ngừng lại, con tâm tực hồ vỗ đập nhẹ hơn tý chút, bởi lẽ trong nhà, một vẻ lạnh lẽo ngấm sâu vào hoàn cảnh, bao phủ thân thể họ, xuyên qua mấy lần áo đủ tỏa khắp trên da thịt, làm cho khí khái của họ, vừa mới nhóm, bỗng đã thấy tiêu rồi. Cả mười một người cùng có chung một cảm giác, ai cũng như ai, họ cùng thấy lạnh buốt sống lưng, ghê rợn một cách tự nhiên, không ai hiểu tại đâu nguồn gốc. Họ nhìn nhau im lặng. Không ai nói với ai, nhưng họ hiểu nhau thâm thúy: họ biết rằng, tránh cọp, họ đã sa vào biệt thự của ma, một thứ ma Mường rất thiêng, rất độc, có thể lấy tính mệnh con người trong khoảng khắc, dễ dàng hơn trở bàn tay.
Thôi chết! Đây là một căn nhà mồ! Một căn nhà mồ bỏ hoang, bỏ vắng, bỏ trơ trọi dọc đường; một căn nhà chỉ chừa có mỗi một cỗ quan tài, một căn nhà không đựng một chút sinh khí nào cả! Nguy hiểm quá! Kẻ nằm trong quan tài kia lại là một thứ ma hiện ra người được, nói nheo nhéo được, đi đứng được, có đủ quyền thế và oai lực gìn giữ của cải nó, dù của cải kia là miếng cơm, là bát nước, là con vịt, là con bò, …
Nghĩ đến đây, đoàn kỵ mã mười một người bỗng thấy – (thần hồn nát thần tính) – kinh khủng tới cực điểm. Chỉ một chút nữa, họ sẽ hóa ra một lũ vật hoảng sợ, họ sẽ chen nhau, xô ngã nhau, chạy ùa ra ngoài nhà sàn, bước mau xuống cầu thang luồng, vó mau một con ngựa, rồi trốn cho nhanh, cho nhanh, không còn dám ngoảnh đầu lại nữa. Nhưng …
Nhưng, bỗng đâu, từ gian nhà trong, xuyên qua lần tường phên và lần cửa tre đóng chặt, tiếng người thiếu phụ lanh lảnh chào mời khi nãy, giờ đây lại sang sảng đưa ra, đầm hơn, nhẹ hơn, dịu dàng thánh thót hơn, làm cho ai nấy phải ngớ ngẩn nhìn nhau, nửa tin, nửa ngờ, không hiểu thế nào là phải nữa.
– Anh em ôi! Xin đừng kinh hãi? Em đây quả là người, trên có cah mẹ, dươi có anh em; em là một kẻ đàn bà thô bỉ, nhưng là người thật, không phải ma quỉ đâu, xin đừng ngại! Em không có lòng nào ám hại viễn khách lỡ đường đâu; em đây vốn dòng lương gia nữ tử! Cha mẹ và anh của em hôm nay không may đi vắng cả, có việc cần kíp phải đi, chả ngờ lại đúng vào ngày anh em hạ cố tới đây, vào nương náu ngủ nhờ đây một tối! Anh em cứ yên tâm ngồi nghỉ ngơi tý chút, em còn bận dỡ tay làm việc, chốc nữa xin đem cơm rượu ra bồi tiếp anh em. Xin đừng nghỉ quẩn, lo quanh: nếu cả đoàn không chịu nán lại một đêm mà cứ nhất quyết ra đi, anh em sẽ không tránh khỏi vuốt heo, hàm cọp, ở xung quanh đây, suốt một vùng vài mươi dặm, hùm thiêng thú dữ rất nhiều. Nhất là … nhất là Thần hổ xám, độ vào quãng này, ngài hay đi tuần qua núi, …
Đương khủng khiếp muốn trốn đi đoàn kỵ mã nghe tới đây đều đổi ý, không dám bước ra ngoài nữa. Họ dẫu còn chưa vững dạ hẳn, nhưng mấy lời êm thấm kia đã rót vào tâm hồn họ một vài tia hy vọng đầm ấm; họ tự thấy đỡ lạnh lưng, đỡ ghê rợn, họ đều muốn ở lại. Trong khi ấy, giọng người con gái trong nhà lại vẳng ra thánh thót như ru.
– Anh em ở đây, không có gì đáng ngại. Ma cũng không sợ! Phụ thân em nguyên làm “Thày Mo” trong vùng này, nhà em đều có dán các thứ bùa hộ mệnh rất nghiệm. Anh em nằm trong nhà sàn này tực như nằm trong hang đá vững chãi, không còn mãnh thú ác quỉ nào dám xông xáo lại gần. Vậy, anh em đã rõ chưa? Hãy cứ dằn lòng chờ em độ ít lâu, em xong chút việc xin mở cửa ra ngay cùng anh em trò chuyện!
Trong tất cả mười một người, riêng củ đoàn là khách có can tràng hơn cả. Bởi vì chàng còn trẻ, chưa từng được nhiều kinh nghiệm, hóa nên coi cái chết rẻ như không. Song le, chàng không muốn chết một cách ngu si dưới hàm con thú dữ thù chàng; chàng bèn quả quyết ra lệnh cho anh em cùng ở nán lại trong căn nhà sàn của thiếu phụ “không thấy người chỉ nghe thấy tiếng”.
Đoàn kỵ mã lúc bấy giờ mới bạo thêm lên một chút; người nọ dựa vào kẻ kia, họ tin ở sức mạnh của số đông. Họ bèn vui lòng cởi hành lý, tháo dây lưng ngồi nghỉ la liệt trên sàn lạnh lẽo.