Khai phong mới tỏ sự cơ, (553)
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa;
Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
Anh em ai nấy đều thương;
Trời ôi! há nỡ lấp đường công danh?
Những lăm công toại danh thành;
Nào hay từ mẫu (mẩu) u minh sớm dời.(560)
Gắng vào trong quán an nơi;
Tớ thầy than thở (thuở) liệu lời qui lai.
Tiểu đồng thở vắn than dài;
Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay!
Trực rằng: Ðã đến nỗi nầy;
Tiểu đồng bậu hỡi làm khuây giải phiền.
Sớm mai thang thuốc giữ gìn;
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay.
Bây giờ kíp rước thợ may;
Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.(570)
Dây rơm mũ bạc áo thùng;
Cứ theo trong sách Văn công mà làm.
Tiên rằng: Con bắc mẹ nam!
Nước non vọi vọi đã cam lỗi nghì.
Trong mình không cánh không vi;
Lấy chi tách dặm lấy chi bớt đàng?
Vào tràng phút lại gặp tang;
Ngẩn (ngẫn) ngơ người ở lỡ làng kẻ đi.
Việc trong trời đất biết chi;
Sao dời vật đổi còn gì mà trông!(580)
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng;
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu;
Ngàn trùng biển rộng chín chiều ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao;
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình!
Quán rằng: Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương.
Ai ai trông cũng thấy thương;
Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.(590)
Dầu cho chước quỷ mưu thần;
Phong trần ai cũng phong trần như ai!
Éo le xưa khéo đặt bài;
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Ðường đi một tháng chẳng gần;
Khi qua khi lại mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạn tác vừa ra;
Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: Anh chớ ưu phiền;
Khoa nầy chẳng gặp ta nguyền khoa sau.(600)
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau;
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương!
Vân Tiên cất gánh lên đường;
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm xa xa;
Phúc nghe ông quán bôn ba theo cùng.
Quán rằng: Thương đứng anh hùng;
Ðưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân;
Ðương khi quá đói thuốc thần cũng no.(610)
Tiên rằng: Cúi đội ơn cho;
Tấm lòng ngại ngại hãy lo xa gần.
Quán rằng: Ta cũng bâng khuâng;
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây.
Non xanh nước bích vui vầy;
Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dẫn thân vào chốn an nhàn;
Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi.
Nói rồi quày quả ra đi;
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.(620)
Trông chừng dặm cũ thẳng xông;
Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn.
Nên hư chút phận chi sờn;
Nhớ công dưỡng dục lo ơn ssnh thành.
Mang câu bất hiếu đã đành;
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn giồi một tấm lòng son;
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy huê trôi;
Nào hay phận bạc như vôi thế nầy?(630)
Một mình ngơ ngẩn (ngẫn) đường mây;
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Ðến nay mới biết tỏ tường,
Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa.
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua;
Gẫm đây cho tới quê nhà còn lâu.
Thế sao chẳng ngớt cơn sầu;
Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bệnh nửa chừng;
Trên non khó liệu giữa rừng khôn toan.(640)
Tiên rằng: Khô héo lá gan;
Ôi thôi! con mắt đã mang (man) lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu;
Chơn đi đã mỏi mình đau như dần.
Có thân phải khổ với thân;
Thân ôi thân biết mấy lần chẳng may!
Ðồng rằng: Trời đất có hay;
Ra đi vừa đặng mươi ngày lại đau!
Một mình nhắm trước coi sau;
Xanh xanh bờ cõi dàu dàu cỏ cây.(650)
Vốn không làng xóm chi đây;
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng;
Người người đều chỉ vào làng Ðồng Văn.
Dắt (dắc) nhau khi ấy hỏi phăn;
Gặp thầy làm thuốc hiệu là thầy Ngang.
Ngang rằng: Khá tạm nghỉ an;
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.
Gặp ta thì bịnh ắt lành;
Bạc tiền trong gói sẵn dàng bao nhiêu?(660)
Ðồng rằng: Tiền bạc chẳng nhiều;
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
May mà bệnh ấy đặng an;
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy.
Ngang rằng: Ta ở chốn nầy;
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà;
Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem Y học làm đầu;
Sau coi Thọ thế thứ cầu Ðông y.(670)
Ngẫm trong Ngân Hán tinh vi
Cùng là Cương Mục, thua gì Thanh Đông.
Gẫm trong tập nghiệp lương phang,
Cùng là Ngự toản (toãn) trải đàng hồi xuân.
Vị chi sẵn đặt quân thần;
Thuốc thời bào chế mười phần nở nang.
Mạch thời đọc mạch Lư san;
Ðặt tay vào bịnh biết đàng tử sanh.
Lục quân, Tứ vật thang danh;
Tập toàn bát vị, sẵn dành nội thương.(680)
Lại thông Bát trận tân phương;
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang ngũ (ngủ) sài.
Ðồng rằng: Thầy thiệt có tài;
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi.
Ngang rằng: Lục bộ đều suy;
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng.
Cứ trong kinh lạc mà thông;
Mạng môn tướng hỏa đã xông lên đầu.
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu;
Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư âm.(690)
Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm;
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.
Ngoài thời cho điểm vạn linh;
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.
Khá trao hai lượng bạc ròng;
Bổ thêm vị thuốc đề phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phước cho chàng;
Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai?
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài;
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.(700)
Mười ngày chẳng bớt chút nào;
Thêm đau trong dạ như bào như soi.
Ðồng rằng: Vào đó thầy coi;
Bịnh thời không giảm thầy đòi bạc thêm.
Ngang rằng: Nằm thấy khi đêm;
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
Quỉ thần người ở trên cao;
E khi đường sá lẽ nào biết đâu.
Tiểu đồng ngươi khá qua cầu;
Cùng ông thầy bói ở đầu Tây Viên.(710)
Tiểu đồng nghe nói đi liền;
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: Ta bói hãn hòi;
Bói hay đã dậy người coi đầy.
Ta đây nào phải các thầy;
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu diệc mấy năm;
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào.
Huỳnh kim Giá hạc sách cao;
Lục nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay.(720)
Can chi đều ở trong tay;
Ðã thông trời đất lại hay việc người;
Đặt tiền quan mốt bốn mươi;
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành.
Thầy bèn gieo đặng quẻ lành;
Chiếm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi.
Ứng vào rùa với cỏ thi;
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường.
Ðồng rằng: Người ở đông phương;
Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an.(730)
Con nhà họ Lục là chàng;
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây.
Bói rằng: Ðinh Mão năm nay;
Hèn chi Giáp tí ngày rày chẳng an.
Mạng kim lại ở cung càn;
Tuổi nầy là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời;
Khen ngươi khéo nói những lời trêu ta.
Cầm tiền gieo xuống xem qua;
Một giao hai sách lại ba hào trùng.(740)
Trang thành ra quẻ lục xung;
Thấy hào phụ mẫu (mẩu) khắc cùng tử tôn.
Hóa ra làm quẻ du hồn;
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan.
Cứ trong quẻ ấy mà bàn;
Tuổi này mới chịu mẫu (mẩu) tang trong nhà.
Xui nên phát bịnh thình lình;
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho bịnh ấy đặng yên;
Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.(750)
Ðồng rằng: Thầy pháp đâu đây?
Bói rằng: Cũng ở chốn này bước ra.
Pháp hay tiếng dậy đồn xa;
Tên là Ðạo sĩ ở Trà Hương thôn.
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn.
Hỏi thăm Đạo sĩ Hương thôn chốn nào?
Chợ đông buôn bán lao xao;
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà;
Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay.(760)
Ðồng rằng: Nghe tiếng thầy đây;
Trừ ma ếm quỉ phép thầy rất hay.
Pháp rằng: Ấn đã cao tay;
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì?
Qua sông cá thấy xếp vi;
Vào rừng cọp thấy đều quì lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa;
Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu;
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.(770)
Pháp hay sái đậu thành binh;
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.
Pháp hay đạo hoả phó thang;
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.
Có ba lượng bạc trao sang;
Ðặng thầy sắm sửa lập đàn chữa (chử) cho.
Ðồng rằng: Tôi chẳng so đo;
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau;
Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.(780)
Chữa chuyên bịnh ấy đặng an;
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy.
Pháp rằng: Về lấy sang đây;
Cho thầy toan liệu lập rầy đàn ra.
Ðồng rằng: Tôi đã lo xa;
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền;
Ra công bùa chú chữa chuyên đường nào.
Pháp rằng: Có khó chi sao?
Ngươi nằm ta chữa rồi trao phù về.(790)
Ðồng rằng: Tôi vốn thằng hề;
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên.
Pháp rằng: Ta biết kinh quyền;
Đau nam chữa bắc mà thiêng mới tài.
Tiểu đồng nghe lọt vào tai;
Lòng mừng vội vã (vả) nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
Mời ông Bàn cổ tọa tiền chứng miêng.
Thỉnh ông Ðại thánh Tề thiên;
Thỉnh bà Võ Hậu đều liền đến đây.(800)
Thỉnh ông nguyên soái Chinh tây;
Cùng bà Phiếu mẫu (mẩu) sum vầy một khi.
Thỉnh ông Phật tổ A Di;
Thập phương chu Phận phù trì giúp công;
Lại mời công chúa Ngũ long;
Bình man Ngũ hổ hội đồng an dinh.
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh;
Cùng là Tam phủ Động đình Xích lân.
Thỉnh trong khắp hết quỉ thần;
Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi.(810)
Cho người ba đạo phù trời;
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai.
Tiểu đồng bưng lĩnh theo lời;
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang;
Phép phù đã đủ thầy toan phương nào?
Ngang rằng: Còn bạc trong bao;
Thời ngươi khá lấy mà trao cho thầy.
Ðồng rằng: Tôi hãy ở đây;
Bịnh kia dầu khá mình này bán đi.(820)
Triệu Ngang biết chẳng còn chi;
Kiếm đường tráo trác đuổi đi khỏi vòng.
Ở đây làng xóm khó lòng;
E khi mưa nắng ai hòng đỡ che.
Ðồng rằng: Trong gói vắn hoe;
Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
Mới lo chạy hết một trăm;
Mình ve khô xếp ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật còn;
Bơ vơ đất khách thon von thể nầy!(830)
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây;
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau.
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu;
Tiểu đồng dìu dắt (dắc) gần cầu Lá buôn.
Ðương khi mưa gió luông tuồng;
Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương!
Xiết bao ăn tuyết nằm sương;
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao!
Dầu cho tài trí bực nào;
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.(840)
Tiên rằng: Đi đã ngất ngơ;
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi.
Non tây vừa khuất mặt trời;
Tớ thầy dìu dắt (dắc) tới nơi Ðại đề.(844)