Hồi thứ 08: Vân Tiên từ Võ Công – Thể Loan lên đường ra kinh đi thi gặp Vương Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm

Xa xa vừa mấy dặm đàng;

Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi. (420)

Trải qua thủy tú sơn kỳ;

Phỉ long vá nhảy gặp thì rồng bay.

Người hay lại gặp kiểng hay;

Khác nào tiên tử chơi rày bồng lai.

Cùng nhau tả chút tình hoài;

Năm ba chén rượu một vài câu thơ.

Công danh ai chẳng ước mơ;

Ba tầng cửa võ một giờ nhảy qua.

Cùng nhau bàn bạc gần xa;

Chữ tài chữ mạng xưa hòa ghét nhau. (430)

Trực rằng:  Rồng xuống vực sâu

Mặc dầu giỡn sóng, mặc dầu chơi mây.

Tiên rằng: Hồng hộc đều bay;

E khi mỏi cánh lạc bầy về sau.

Mảng (mãng) còn bàn bạc cùng nhau;

Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.

Chinh chinh vừa xế mặt trời;

Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ

Phút đâu gặp bạn cố tri;

Ðều bày tên họ một khi cho tường.(440)

Một người ở quận Phan Dương;

Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.

Một người ở phủ Dương Xuân;

Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.

Hai người lại gặp hai người;

Ðều vào một quán vui cười ngả (ngã) nghiêng.

Kiệm rằng: Nghe tiếng anh Tiên;

Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao.

Hâm rằng: Chưa biết thấp cao;

Làm thơ mới rõ bực nào tài năng.(450)

Bèn kêu ông quán dạy rằng:

Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề.

Quán rằng: Thịt cá ê hề;

Khô lân, chả phụng bộn bề thiếu đâu?

Kìa là thuốc lá ướp ngâu;

Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.

Để khi đãi khách giàu sang;

Ðãi người văn vật, đãi trang anh hùng.

Bĩ bàng trà rượu đã xong;

Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.(460)

Kiệm Hâm còn hãy ngẩn (ngẫn) ngơ;

Phút thơ Tiên Trực một giờ vừa xong.

Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng;

Gẫm nghi Tiên Trực viết trùng cổ thi.

Chẳng hay ông quán cười chi?

Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.

Tiên rằng: Ông quán cười ai;

Quán rằng: Cười kẻ bất tài đồ thơ.

Cười người Tôn Tẫn không lừa;

Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.(470)

Trực rằng: Lời nói hữu duyên;

Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?

Quán rằng: Kinh sử đã từng;

Coi rồi lại khiến lòng hừng xót xa.

Hỏi thì ta phải nói ra;

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.

Tiên rằng: Trong đục chưa tường;

Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?

Quán rằng: Ghét việc tầm phào;

Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.(480)

Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm;

Ðể dân đến đỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U Lệ đa đoan;

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngũ Bá phân vân;

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Thương là thương đức thánh nhân;

Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông!.(490)

Thương thầy Nhan Tử dở dang;

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành;

Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.

Thương thầy Ðồng Tử cao xa;

Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi;

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.

Thương ông Hàn Dũ chẳng may;

Sớm dưng lời biểu tối đày đi xa.(500)

Thương thầy Liêm Lạc đã ra;

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

Xem qua kinh sử mấy lần;

Nửa phần đã ghét nửa phần lại thương.

Trực rằng: Chùa rách phật vàng;

Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.

Thương dân sao chẳng lập thân;

Ðương khi nắng hạ toan phần làm mưa.

Quán rằng: Nghiêu Thuấn thuở xưa;

Khó ngăn Sào Phủ không ngừa Hứa Do.(510)

Gi Tề chẳng khứng giúp Châu;

Một mình một núi ai hầu chi ai?

Ông Y ông Phó ôm tài;

Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu?

Thái Công xưa một cần câu;

Sớm mai Sông Vị mặc dầu vui chơi.

Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi;

Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu.

Trần Đoàn chẳng chút lo âu;

Gió trăng một túi công hầu chiêm bao.(520)

Người nay có khác xưa nào;

Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn?

Kiệm rằng: Lão quán nói nhăng;

Dẫu cho trải (trãi) việc cũng thằng bán cơm.

Gối rơm theo phận gối rơm;

Có đâu dưới thấp mà chờm lên cao.

Quán rằng: Sấm chớp mưa dào;

Ếnh nằm đáy giếng thấy bao lăm trời?

Sông trong cá lội thảnh thơi;

Xem hai con mắt đã ngời như châu.(530)

Uổng thay đàn khảy tai trâu;

Nước xao đầu vịt nghĩ lâu nực cười.

Tiên rằng: Ông quán chớ cười;

Ðây đà nhớ đặng bảy người trước lâm.

Cùng nhau kết nghĩa đồng tâm;

Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.

Công danh phú quý màng chi;

Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.

Rừng nhu biển thánh mênh mông;

Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay!(540)

Quán rằng: Ðó biết lòng đây;

Lời kia đã cạn rượu nầy thưởng cho.

Kiệm Hâm là đứa so đo;

Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.

Khoa này Tiên ắt đầu công;

Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.

Mảng (mãng) còn nghĩ việc tới lui;

Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.

Kẻ thùng người trắp đầy đường.

Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ ba.(550)

Vân Tiên vừa bước chân ra;

Bỗng đâu xảy gặp tin nhà đem thơ.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!