Phần 06: Câu 573 – 682

Ví bằng tiền cạn gạo không,

Tay sam tay ốc chớ hòng riêng than;

Chồng dầu số kiếp gian nan,

Hay là dốt nát cũng an phận mình; (143)

Đương khi hoạn nạn gặp gầnh,

Trèo non lăn suối giữ tình ái ân;

Dầu mang tội với quân thân,

(Câu 580) Ở trong li tiết cũng gần chớ xa; (144)

Đường mây ai khỏi sẩy sa,

Trèo lên trượt xuống người ta có thường;

Dầu cách dầu giáng một trường,

Mình cho vẹn đạo cang thường mới hay; (145)

Dinh hư tiêu tức có ngày,

Trước giàu sau khó vận xây gởi trời;

Dầu chồng sa sút thua người,

Ăn đói mặc rách chớ dời lòng ta;

Ví bằng giận dữ đòi ra,

(Câu 590) Làm tai làm ngược ắt là họa to; (146)

Chồng yêu chồng mới bảo cho,

Dầu quở dầu mắng càng lo sợ nầy;

Chớ nên nặng mặt sa mày,

Động nia chặt thúng nói cay nói nồng; (147)

Chớ nên bỏ việc bỏ công,

Chạy ra xách nón đi dông đi dài; (148)

Chớ nên giận lẫy nằm hoài,

Nhịn cơm nhịn cháo rằng ai bạc tình? (149)

Chi bằng cúi mặt co mình,

(Câu 600) Thốt thưa dịu ngọt cho đành lòng trên;

Vợ chồng đẹp cả đôi bên,

Trên hòa dưới thuận mới nên đạo nhà;

Con chồng là cũng con ta,

Trẻ thơ ngây dại nó đà biết đâu?

Chớ nên lòng hiểm dạ sâu,

Giận chồng đánh lưởi mang câu bất từ; (150)

Đàn bà những lúc khỉ cư,

Yếm dày khăn khít chắc khư lấy mình;

Dầu là quần bố tràm kinh,

(Câu 610) Cũng cho tề chỉnh giữ mình đoan trang;

Đi nằm gài cúc gài quang,

Chớ tin phòng kín hở hang áo quần; (151)

Tắm đừng tắm lổ tắm trần,

Huống chi lại chốn giang tân nửa ngày; (152)

Dầu khi vội vả lắm thay,

Chơn đi dè dặt guốc giày nhẹ không;

Đàng đá đàng cát long đong,

Lỡ chơn trái bước chổng mông van trời; (153)

Đêm khuya nằm ngủ nằm ngơi,

(Câu 620) Nghiêng mình theo gối chớ dời chơn tay;

Dầu khi giấc tỉnh giấc say,

Sáo quần chặt chịa khỏi bày mình ra; (154)

Làm người phải giữ nết na,

Khó mà khó sạch rách mà rách thơm;

Những là trầu nước mũi đờm,

Chớ nên vây vá mà nhờm mắt chơn; (155)

Kìa nơi ván sạch chiếu trơn,

Đang khi dơ lấm chớ chen mình vào; (156)

Dòng sông có phải nước ao?

(Câu 630) Thủy quan Hà bá biết bao quỉ thần?

Gặp khi tiết nhựt đản thần,

Kẻ vò gạo cúng người cân nước thờ;

Nguyệt kinh máu để tanh nhơ,

Chậu dầm tay giặt bấy giờ cho xong;

Chớ nên đem xuống dưới sông,

Tội nầy sẵn đó có hòng khỏi sao?

Nhị tiện nhơ nhớp xiết bào,

Có nơi có chốn lẽ nào đảm xiên? (157)

Sao cho rõ mặt gái hiền,

(Câu 640) Vi bằng quỉ lộn với tiên ra gì? (158)

Phép nhà có phận tôn ti,

Ai ai mà chẳng bỉnh đi tánh còn;

Đứng trời đã rạng như son,

Phận mình em út dâu con vợ hầu;

Lẽ đâu lộn đít lộn đầu?

Làm điều phạm thượng, buông câu loạn thường?

Những người ăn ở bất thường,

Gương trời soi xét tai ương chẳng vừa;

Vậy nên kêu dạ hỏi thưa,

(Câu 650) Vào lòn ra cúi rước đưa kính nhường; (159)

Tùng phu ta giữ đạo thường,

Xướng tùy hai chữ trăm đường thuận theo;

Chớ nên chưởi chó mắng mèo,

Trâu đen trâu trắng ra điều chẳng hay; (160)

Ơn cha ngãi mẹ nặng dày,

Sống thờ thác cất có ngày nào nguôi?

Cha răn mẹ bảo dể duôi,

Uổng chưng công đẻ công nuôi hai người; (161)

Ai lớn bằng đất bằng trời?

(Câu 660) Trời che đất chở già đời không quên;

Dầu khi gió dậy sấm rền,

Việc mình trở chớ nên giận hờn; (162)

Trẻ con trái chứng từng cơn,

Đòi ăn đòi bú lờn đơn với mình;

Mẹ yêu con phải dỗ dành,

Chớ nên đánh chưởi chẳng lành bởi ta; (163)

Anh em chồng cậy ruột rà,

Lẽ đâu mình nỡ tách xa hai đường;

Ví bằng người có huích tường,

(Câu 670) Cũng nên ngăn đón trong giường trong chăn;

Của cha mẹ để có ngàn,

Ít nhiều sớt xẻ kẻ ăn người nhờ;

Tớ tôi miệng lưỡi thêm thừa,

Tự ta giả điếc giả lờ cũng thôi;

Bạn đâu khác họ đã rồi,

Nay về một cửa ăn ngồi cùng nhau;

Ta nên kính trước nhường sau,

Chớ đem hèn khó sang giàu mà phân;

Bằng ai khinh dể mấy lần,

(Câu 680) Một trăm điều nhịn lấy phần phải ta;

Đừng còn tút tít trong nhà,

Chồng nghe vội giận bất hòa bởi ai? (164)


Dẫn giải của Trương Vĩnh Ký

(143): Đờn bà nhờ danh phận chồng; dầu trời cho giàu sang hay là nghèo khó cũng phải tùy cho an phận mình, chớ trách móc phàn nàn.

Vận kiến: (quẻ chuân quẻ kiến) chỉ là vận xấu khốn khó.

(144): Dầu khi hoạn nạn chồng có phải lưu lạc cũng phải trèo non lặn suối, lên đèo xuống ải mà đi theo chồng cho trọn tình ái ân.

Li tiết: trăng trối.

(145): Dầu chồng đi làm quan hoặc mắc công tội, bị cách bị giáng thể nào mặc lòng, thì cũng phải giữ cho trọn đạo cang thường mới hay.

(146): Việc đinh hư tiêu trướng ở đời là vận trời xây; rủi chồng có thua sút người ta, thì vợ chớ khá lẫy đương đòi để đòi bỏ làm tai làm ngược, …

(147): Chồng có la có nói là bởi chồng yêu thương mình, khi làm vậy chớ có nặng mặt nặng mày quạu quọ, chưởi chó mắng mèo, đanh con, quở tớ, nói cạnh nói khóe xóc óc, …

(148): Đừng có giận lẫy bỏ công bỏ việc, xách khăn xách nón quày quả ra đi dông dài.

(149): Cũng đừng nằm vạ, bỏ cơm bỏ cháo, mà nói chồng bạc tình, …

(150): đạo nhà muốn cho trên thuận dưới hòa, trong êm ngoài ấm thì phải giữ cữ phu xướng phụ tùy. Đừng có giận chồng mà bắt con mà đánh mà chưởi, lòng hiểm dạ sâu, vì nó là con mình, nó khờ dại không biết gì.

(151): Đờn bà khi dầu đứng dầu ngồi cũng phải giữ yếm cho khít, áo quần ăn mặc cho kín đáo, khi ở trong phòng cũng phải gài cho tử tế, đừng để lõa lồ chẳng nên.

(152): Khi tắm rửa cũng chẳng nên lõa lồ nữa, huống chi là cởi trần giơ vú nơ nơ xuống bến ngồi mà tắm giữa ban ngày.

(153): Dầu khi gấp rút cũng chẳng nên đi giày đi guốc lộp cộp lạc cạc; chạy mau rủi vấp trợt rồi chổng chổng mông la trời.

(154): Khi đêm nằm ngủ cũng còn phải giữ nết na, chớ để trật gối, lật áo sút quần ra lõa lồ.

(155): Ăn ở cho sạch sẽ, đừng xài xể rách rưới; chớ nhổ cốt trầu vẩy vá, khạc giổ bậy bạ, hỉ mũi quẹt khắp nơi đụng đâu quẹt đó, chúng thấy mà nhờm chơn gớm mắt.

(156): Chỗ sạch, khi chơn dơ chớ có bước vào.

(157): Quần què chớ có đem dưới sông mà xổ; phải dầm chậu mà giặt mà thôi. Đại tiện tiểu tiện cũng phải đi cho có nơi có chốn.

(158): Ở làm sao cho ra gái lành gái khôn thì mới hay.

Bình di là giữ bằng: giữ lẽ bằng.

(159): Dâu có tôn ti cả. Trong nhà có kẻ lớn, trước là cha mẹ cô bác, sau là chồng, vợ phải kính nhường thưa dạ.

(160): Vợ phải vưng lời chịu lụy chồng, ở cho có phép tắc lễ nghi, không nên mày tao mi tớ; nói cạnh nói khóe, gay gắt chưởi chó mắng mèo, …

(161): Phải vưng lời, phải cung kính cha mẹ, phải nghe lời đừng có dể ngươi.

(162): Phải kính trời đất; nên khi dông gió, sấm sét ngăn trở việc mình cũng chẳng nên giận hờn nói lộng ngôn.

(163): Khi con nhỏ nó làm nũng trái chứng đòi bú đòi ăn, thì phải dỗ nó, đừng có mắng chưởi đánh đập nó tội nghiệp.

(164): Tiết này dạy đờn bà chớ có rầy rà ghen ghét, khiến chồng vì bụng vợ mà xa cách lạt lẽo với anh em thân thiết, dầu chồng có như vậy cũng phải ngăn can; dầu chồng có thương mà sang sớt của một ít một hơi cũng chẳng nên nghe đầy tớ nói têm nói thừa một chút xít ra nhiều, một phải làm mặt ngơ tai điếc.

Chị em dâu thì phải ở cho vừa, đừng kẻ trượng người khinh, đừng thấy khó hàn mà dể, sang giàu mà vị; dầu có ai ở bất bình thì cũng làm thinh, đừng năn nỉ thút thít cho chồng hay mà sinh rầy ra mất lòng.

Huích tường là huynh đệ huích xu tường, nghĩa là anh em hòng đánh lộn với nhau trong nhà.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!