Năm Tân tị (1), tại tỉnh Hưng Hóa, phủ Cẩm Khê, huyện Hạ Hòa, làng Y Sơn, có một người tâm tánh từ hòa lương thiện lắm, tuổi ước chừng sáu bảy mươi, có một đứa con trai chừng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, đã có vợ rồi, mà con dâu nầy thật là một người hiền lành cung kính cha mẹ chồng cũng như cha mẹ mình, nên cha mẹ với chồng thương yêu lắm.
Trong nhà có một thằng đày tớ tên là Cuội, cha mẹ nó vốn là người ở đồng lân. Một ngày kia tên Cuội giận ai không biết, nên nó bỏ trốn đi mất.
Cha mẹ tên Cuội thấy con mất đã mấy ngày, thì nghi rằng chủ nhà giết con mình, liền làm trạng vào tỉnh mà kiện nhơn mạng. Quan trên cứ theo luật mà xử, nếu đày tớ tôi mọi trốn mà không đi cớ với làng, ấy là giết người mà giấu thây.
Quan dạy bắt hết cả nhà mà khảo kẹp, lấy làm khổ sở lắm. Khi bắt ông già bà già với chồng mà khảo tra thì ba người kêu trời than đất rốt đỗi là oan, dầu kêu khóc bao nhiêu mặc lòng, quan cứ việc làm theo phép chẳng hề dung thứ.
Nàng dâu thấy cha mẹ chồng với chồng chịu khảo kẹp như vậy, thì đau lòng xót dạ quá, nàng dâu bước đến lạy quan xin dung cho ba người, để tôi khai ngay.
Quan nghe nói thì nói:
– Mi khai chi thì khai ngay cho ta nghe.
Nàng liền khai rằng:
Tội ngộ sát tôi làm tôi chịu,
Bởi giận cùng giết tớ thác oan.
Sai khiến chi, tớ nói ngỗ ngang
Lấy banh củi đánh nhằm chỗ nhược.
Nó thác đó tôi liền dụng chước,
Lén mẹ cha đem nó bỏ sông,
Tội ác nầy tôi cũng giấu chồng,
Nay đổ bể dám đâu yêm ẩn.
Thấy khảo kẹp thiết tha mấy bận,
Tội mình làm mình chịu đã đành.
Cúi trông lượng cả cao minh,
Tha hết thảy một tôi ưng chịu.
Quan nghe lời khai thì mừng, liền biểu biện lại biên lời sao khẩu của con dâu, còn ông già bà già với chồng thì tha về, nàng dâu thì đe, giam vào ngục. Quan làm án gởi đến xin quan tổng trấn thượng sớ xử tử con dâu đó.
Trong án lại có câu rằng: “Đả tử phao thi, độc tánh phụ nhơn khả úy, bổn hô ngộ sát, cố tình thẩm dã tù tri.”
Quan tổng trấn xem án rồi thì cũng phê y như án quan Bố đã kết. Rồi quan tổng trấn thượng sớ về trào.
Lịnh hoàng đế xem án rồi châu phê trảm quyết. Án trào trở lại nơi dinh quan Bố, quan Bố thi hành, tờ châu tri phát ra các nơi, cha mẹ chồng với chồng than khóc vô cùng. Cha mẹ thì thương dâu thảo, chồng thì xót xa đau đớn vì mất vợ hiền, cả nhà buồn rầu bỏ ăn bỏ uống. Kêu trời than đất xin minh oan.
Thật lòng trời đất công minh, trời không phụ người hảo tâm. Nội ngày đó thằng đày tớ tên Cuội, nó chạy về nhà nói rằng:
– Tôi hổm nay đi bậy chơi mà sao hôm nay trong lòng nóng nảy lắm, đi hướng nào cũng nóng nảy lương tâm, trừ ra đi về nhà chủ thì mới yên mà thôi.
Tức thì người chồng đem tên Cuội đến thưa với làng, làng dđem tên Cuội đến quan Bố mà thưa lại, quan Bố nghe qua lấy làm lạ, dẫn nàng dâu đến và hỏi rằng:
– Mi là người vô tội, sao ngươi dám chịu rằng giết người?
Nàng thưa rằng:
Phận phụ nữ chỉ sanh ngoại tộc,
Về nhà chồng giúp nối tông đàng,
Hệ trời xui họa nọ phải mang,
Túng phải biến cứu người tai học.
Phận bồ liễu mất còn chẳng sá,
Cám nhà người tuyệt tộc mà thương.
Thân liều thân cứu vẹn tai ương,
Sau kiếm vợ sanh con phụng tự.
Nhà người đặng an cư mọi sự,
Danh tiết nầy mất cũng rỡ ràng,
Chẳng sá chi cốt nhục xương tàn,
Thác trọng nghĩa đã đành phận thác.
Quan Bố nghe lời nàng dâu khai, thì mới biết rằng nàng nầy là phận đàn bà mà tâm tánh khí khái quá, thị tử như qui gia tân, thật là nữ trung hào kiệt, liền viết khai lại tử tế, gởi về trào xin nhờ lượng cao minh phán đoán.
Lời khai về tới trào, đức Minh Mạng xem rõ thì khen người đàn bà có nghĩa, đức vua liền phê cho nàng dâu bốn chữ: NGHĨA PHỤ KHẢ PHONG.
Trong lời chiếu chỉ nhà vua dạy quan Bố phải sơn thết bốn chữ vàng và phải bổn thân đem tấm biển đến mà treo nơi nhà nàng dâu, cho nhơn dân xem rõ mà bắt chước theo nàng dâu đó.
Còn vụ cha mẹ thân tộc của tên Cuội vu cáo thì phải lấy theo luật mà xử. Phần quan Bố lên án cho nàng ngộ sát, thì bị giảm đẳng.
Rất đáng khen một người đàn bà về nhà người làm dâu, mà trong lòng lấy sự trung nghĩa mà ở, biết có cha mẹ chồng với chồng, mà không kể thân mình còn mất, thật trong đời ít có một người đàn bà chí khí như vậy.
(1) Năm Tân tị là năm 1821, bên Tàu vua Đạo Quang tức vị, bên An Nam trào nhà Nguyễn vua Minh Mạng năm thứ hai.