Từ Gia Định, xuống tàu Tarn ấy, (a)
Tới Alger, lên thấy thành ni. (b)
Rồi qua cho đến Paris, (c)
Thấy sao kể vậy từ đi tới về.
Tiếng quê kệch, dẫu chê cũng chịu,
Lời thật thà miễn hiểu thì thôi.
Trải xem những chuyện qua rồi,
Thì hay họa phước do nơi lòng người.
Năm Kỷ Mão, có lời nghị định,
(Câu 10) Đến Canh Thìn, mồng chín tháng hai. (d)
Vâng quan Tổng thống đặt sai,
Đem đoàn sĩ tử qua nơi Tây thành.
Đặng mà học, cho rành ngãi lới,
Kẻo chưa thông, thấu tới bậc cao.
Đề huề rương trắp xuống tàu,
Bà con đưa đón người nào cũng thương.
Cùng nhau chúc, an khương đôi chữ,
Lại lo thầm, lành dữ chưa hay,
Tối rồi hai ngã phân tay,
(Câu 20) Người về ủ mặt châu mày kẻ đi.
Tàu quày chạy, chậm rì chậm rọt,
Coi như tuồng, còn tiếc xứ ni.
Dòng sông quanh lộn phải tùy,
Ban đêm chẳng thấy Tam Kỳ ở đâu.
Thùy Vân tới, thấy lầu đèn vọi,
Trên núi cao, nên chói xa vời.
Đặng tàu các nước ở ngoài,
Tối trời nhìn biết là nơi Cần Giờ.
Ban ngày có, kéo cờ dấu hiệu,
(Câu 30) Dần xa xui, cũng hiểu nơi chi.
Sáu giờ ra khỏi Nam Kỳ,
Thấy trời với nước xanh rì khắp nơi,
Đã nước biển, nghe hơi ngầy ngật,
lại phần tàu nghiêng lắc dật dờ.
Làm cho buồn mữa ngất ngơ,
Chóng mày chóng mặt bắt khờ bắt ngây.
Cũng có kẻ không hay dại sóng,
Ấy như người dồi võng đã quen.
Nổi dông thì dại sóng liền,
(Câu 40) Tịnh trời không thuốc cũng thuyền mới kỳ.
Nghĩ tàu sắt, khéo gầy khéo dựng,
Ba bốn từng, coi giống tòa lầu.
Cả trăm ngoài thước trước sau,
Bề ngang mười mấy, bề sâu quá mười.
Trên bòng lái, chơi bời cũng thú,
Dưới phòng ăn, phòng ngủ cũng xinh,
Giữa còn sân rộng thinh thinh,
Lễ ngày chúa nhựt, điểm binh mỗi chiều.
Đã ba cột, có nhiều buồn vải,
(Câu 50) Lại máy thêm, quạt chạy như dông.
Nhà thương, chỗ tắm, chỗ sông,
Đàn bà khác chỗ, đàn ông khác phòng.
Lối trước mũi, có chuồng thú vật,
Chỗ nấu ăn, lại cất cũng gần.
Nội tàu có vỏ có văn,
Lương y, linh mục cùng hàng bá công.
Chiều mười một, Côn Nôn trông thấy,
Cảnh tự nhiên, sơn thủy xinh thay.
Chừng vài muôn thước về dài,
(Câu 60) Năm ngàn bề dọc, ngàn ngoài người dân.
Côn Nôn đảo, tội nhân đày đó,
Số năm nay, cũng có gần ngàn.
Người làm gạch, kẻ bầm than,
Lới đi chài lưới, lớp mần rẩy khoai.
Mười giờ tối, mười hai ghé lợi,
Đất Malais, Phố Mới cù lao.
Anglais mua đó đã lâu,
Hồi vua Minh Mạng năm đầu lên ngôi.
Bốn mươi thước, ngó coi dài xọc,
(Câu 70) Được vài muôn, bề dọc rộng thinh.
Có gần mười vẹo dân tình,
Malabar ít, một mình Chệc đông.
Thới Tây kể ước chừng ngàn chín,
Kể và quan và lính và dân.
Mỗi năm bán mấy triệu hàng,
Tính đồ chở tới cũng bằng chở đi.
Cửa Phố Mới, thuế chi cũng khỏi,
Ngỏ đặng nên, đô hội thương nhân.
Xưa kia ước được trăm dân,
(Câu 80) Làm nghề chài lưới kiếm ăn qua ngày.
Chừ có kẻ, đông tây đủ mặt,
lại thấy người, nam bắc đến nơi.
Cuộc đời hay đổi hay dời,
Ngày nay thương hải, ngày mơi tang điền.
Rủ nhau tới, gây nên cảnh tốt,
Kéo ra về, lại hốt bạc qua.
Đắp đàng, mua đất, cất nhà,
Đào kinh, xây công mở ra cửa hàng.
Phố lầu cất, vài tầng hết thảy,
(Câu 90) Mỗi đàn xen, hai dãy ngay hàng.
Có làm máy nước bên đàng,
Tay đè thùng hứng nước tràn chảy ra.
Chùa Phước Kiến in chùa ông Hược,
Chùa Quảng Đông thua sút chùa Bà.
Anglais có lập nhà thờ,
Kính vì Thượng đế sanh ra mọi loài.
Đi dạo thấy một vài trường học,
Dạy tiếng người ngoại quốc thông thương.
Ở đây nha phiến có thường,
(Câu 100) Gần ba trăm tiệm phô trương bên đàng.