Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hoa ức dung quang liễu ức mi,
Xuân phong đình viện nguyệt minh thì.
Kỳ nam tương yết hàn phương tận,
Hổ phách bôi càn túy vị tri.
Trà đạm đa nhân yên tị hạc, (1)
Mặc nùng trường vị vũ thôi thi.
Bồng Lai cung khuyết đồng nhân viễn,
An đắc thanh loan ủy sở tư. (2)
Dịch nghĩa: Bài ba
Hoa gợi nhớ dung quang liễu gợi nhớ mày,
Gió xuân nơi đình viện lúc trăng sáng.
Hương kỳ nam đã tàn mà rét chưa hết,
Chén hổ phách cạn chưa biết là đã say.
Trà nhạt phần nhiều vì hạc tránh khói,
Mực đậm vì mưa cứ giục thơ hoài.
Bồng Lai cung khuyết xa giống như trời,
Sao có được chim thanh loan giúp thỏa lòng nhớ nhung.
Chú thích
(1): Lấy ý từ câu thơ của Lâm Bô đời nhà Tống (theo sử Trung Quốc):
Tẩy nghiên ngư thôn mực,
Phanh trà hạc tị yên.
(Rửa nghiên thì cá nuốt mực,
Nấu nước pha trà thì hạc tránh khói)
(2): Do hai câu thơ trong bài Vô đề của Lý Thương Ẩn. Chim xanh là chim đưa tin của Tây Vương mẫu.
Bồng Lai thứ khứ vô đa lộ,
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
(Bồng Lai lần này đi đường không xa lắm,
Chim xanh vì ta ân cần dò thăm).
Hoài Anh dịch thơ
Hoa nhớ dung quang liễu nhớ m2y,
Gió xuân trăng sáng viện đình đây.
Kỳ nam hương tạ chưa tan rét,
Hổ phách chén tàn chửa biết say.
Trà nhạt: hạc còn nương tránh khói,
Mực nồng: mưa cứ giục thơ hoài.
Cung Bồng Lai ví trời xa thẳm,
Cậy được chim xanh thỏa dạ này.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.