Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Thiều đệ tinh xa thử nhật du,
Lộ bàng dương liễu mộ yên phù.
Tình nan liễu liễu tần thành mộng,
Tâm dị vong vong bất giác thu.
Cảm hứa đương niên thần tử phận,
Dụ cùng tự cổ đế vương châu.
Ưu nghi dục bốc tiền trình sự,
Dĩ quá Hi Hoàng hoạch quải khâu (2).
Dịch nghĩa: Trên đường Hà Bắc viết tả nỗi lòng
Xa xôi xe sứ lần này đi,
Dương liễu bên đường khói chiều nổi.
Tình khó dứt nổi nhiều lần thành mộng,
Lòng dễ quên bất giác đã thu.
Dám hứa tròn phận thần tử năm trước,
Muốn đi cùng khắp các châu của đế vương thời cổ.
Lo ngờ muốn bói việc tương lai,
Đã đi quá cái gò vua Phục Hi vạch quẻ.
Chú thích
(1): Hà Bắc: một tỉnh ở đông bắc, Trung Quốc, phía hạ lưu sông Hoàng Hà.
(2): Phục Hy (2852 – 2737 TCN): một vị vua thời thái cổ theo lịch sử Trung Quốc.
Hoài Anh dịch thơ
Xa xôi xe sứ du hành,
Bên đường dương liễu bồng bềnh khói chiều.
Tình khó dứt nên mộng nhiều,
Lòng dễ quên, bỗng hắt hiu thu về.
Phận thần tử hứa trọn bề,
Chín châu đi khắp thỏa thuê mới đành.
Ngờ lo muốn bói tiền trình,
Đã quá gò vạch quẻ linh Hi Hoàng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.