Vân Tiên từ giã phản hồi; (237)
Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình;
Nỗi ân chưa trả, nỗi tình lại vương. (240)
Hữu tình hai chữ uyên ương;
Chuỗi (chuổi) sầu ai khéo vấn vương vào lòng?
Nguyện cùng Nguyệt Lão hỡi (hởi) ông;
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng!
Hữu tình chi bấy Ngưu lang;
Tấm lòng Chức nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên;
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê.”
Trải qua dấu thỏ đường dê;
Chim (chiêm) kêu vượn hú bốn bề nước non. (250)
Vái trời xin đặng vuông tròn;
Trăm năm cho vẹn lòng son với chàng!
Phút đâu đã tới phủ đàng;
Kiều công xem thấy lòng càng sanh nghi.
Hỏi rằng nào trẻ tùy nhi?
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình;
Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui
Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn. (260)
Lao đao phận trẻ chi sờn,
No nao trả đặng công ơn cho chàng.
Kiều công nghe nói liền can;
Dạy rằng: “Con hãy nghỉ (nghĩ) an mình vàng.
Khi nào cha rảnh việc quan;
Cho quân qua đó mời chàng đến đây.
Sao sao chẳng kịp thời chầy;
Cha nguyền trả đặng ơn nầy mới thôi.
Hậu đường con hãy tạm lui;
Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già.” (270)
Tây lầu trống điểm sang ba;
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình.
Dời chơn ra chốn hoa đình;
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhân.
Than rằng: Lưu thuỷ cao sơn;
Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm;
Chữ tình càng tưởng càng thâm;
Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộng trời dài;
Hỡi (hởi) ai nỡ để cho ai đeo phiền. (280)
Trở vào bèn lấy bút nghiên;
Ðặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành;
Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.
Than rằng: Ngàn dặm sơn xuyên!
Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu. (286)