Hồi thứ 03: Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong;

Hỏi: ai than khóc ở trong xe nầy?

Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay;

Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ. (140)

Trong xe chật hẹp khôn phô;

Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng”.

Vân Tiên nghe nói động lòng;

Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lu la.

Khoan khoan ngồi đó chớ ra;

Nàng là phận gái ta là phận trai.

Tiểu thư con gái nhà ai;

Ði đâu nên nỗi (nổi) mang tai bất kì?

Chẳng hay tên họ là chi;

Khuê môn phận gái việc gì đến đây? (150)

Trước sau chưa hãn (hản) dạ nầy;

Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?”

Thưa rằng: “ Tôi Kiều Nguyệt Nga;

Con nầy tì tất tên là Kim (Kiêm) Liên.

Quê nhà ở quận Tây Xuyên;

Cha làm tri phủ ngồi miền Hà Khê.

Sai quân đem bức thư về;

Rước tôi qua đó định bề nghi gia.

Làm con đâu dám cãi cha;

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành. (160)

Chẳng qua là sự bất thành;

Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.

Lâm nguy chẳng gặp giải nguy;

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.

Trước xe quân tử tạm ngồi;

Đặng cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.

Chút tôi liễu yếu đào thơ;

Giữa đường lâm phải bụi nhơ đã phần.

Hà Khê qua đó cũng gần;

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng. (170)

Gặp đây đương lúc giữa đàng;

Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.

Gẫm (gẩm) câu báo đức thù công;

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”

Vân Tiên nghe nói liền cười.

Làm ơn há dễ trông người trả ơn?

Nay đà rõ đặng nguồn cơn;

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.

Nhớ câu kiến ngãi bất vi;

Người đời dường ấy cũng phi anh hùng. (180)

Ðó đà biết chữ thỉ chung;

Lựa là đây phải theo cùng làm chi?

Nguyệt Nga biết ý chẳng đi;

Hỏi qua tên họ một khi cho tường.

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường;

Chẳng qua quân tử quê hương nơi nào?”

Phút nghe lời nói thanh thao;

Vân Tiên há nỡ lòng nào phui pha.

“Ðông Thành vốn thiệt quê ta;

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên.” (190)

Nguyệt Nga vốn đứng thuyền quyên;

Tai nghe lời nói tay liền trao trâm.

Thưa rằng: “ Nay gặp tri âm;

Xin đưa một vật để cầm làm tin.”

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn;

Nguyệt Nga liếc (liết) thấy càng thìn nết na:

“Vật chi một chút gọi là;

Thiếp thưa chưa dứt, chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ;

Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành?” (200)

Vân Tiên khó nỗi làm thinh;

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây.

Than rằng: “ Đó khéo trêu đây;

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.”

Đương khi gặp gỡ giữa đàng;

Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng ngãi (ngải) khinh tài;

Nào ai chịu lấy của ai làm gì?

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi;

Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng. (210)

Ai dè đấng mặt anh hùng;

Thấy trâm thôi lại thẹn cùng với trâm.

Riêng than: Trâm hỡi là trâm;

Đã vô duyên bấy ai cầm mà mơ?

“Ðưa trâm chàng đã làm ngơ;

Thiếp xin làm một bài thơ giã từ.”

Vân Tiên ngó lại rằng ừ;

“Làm thơ cho kíp bấy chừ chớ lâu.”

Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu;

Xuống tay liền tả tám câu năm vần. (220)

“Thơ rồi nầy thiếp xin dâng’

Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào.”

Vân Tiên xem thấy ngạt ngào;

Ai dè sức gái tài cao bực nầy.

Ðã mau mà lại thêm hay;

Chẳng phen Tạ Nữ cũng tày Từ phi.

Thơ ngâm dũ xuất dũ kì;

Cho hay tài gái kém gì tài trai.

Như vầy ai lại thua ai;

Vân Tiên họa lại một bài trao ra. (230)

Xem thơ biết ý gần xa;

Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai.

Có câu xúc cảnh tình hoài;

Ðường xa vọi vọi, dặm dài vơi vơi.

Ai ai cũng ở trong trời;

Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!