Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Dung sơ cố tật dược hà cầu,
Mỗi sử nhân gian tác thoại đầu.
Tôn tửu dị thù tri kỷ ẩm,
Phiến ngôn nan vấn vị thân mưu.
Nghinh phong đình viện hoa tranh phóng,
Đái vũ giang hồ thủy cấp lưu.
Si hán thực cần do viễn chí,
Cổ nhân mạc vấn tái lai bất (phầu).
Dịch nghĩa: Lưu biệt
Nhác nhớn chểnh mảng cố tật biết tìm thuốc đâu,
Luôn khiến người đời đem mình ra làm đầu đề câu chuyện.
Chén rượu để thủ tạc tri kỷ uống,
Một chút lời mưu việc cho mình cũng khó hỏi.
Đón gió nơi đình viện hoa đua nở,
Mang mưa sông hồ nước chảy gấp.
Kẻ ngây ăn rau cần còn mang chí xa rộng,
Cố nhân đừng hỏi có trở lại hay không.
Hoài Anh dịch thơ
Tật chểnh mảng thuốc tìm đâu?
Người đem bàn tán kể âu cũng nhiều.
Chén mời tri kỷ dễ chiều,
Mưu cho mình, chẳng một điều hỏi han.
Gió đưa hoa nở đầy giàn,
Mang mưa, nước chảy miên man dạt dào.
Kẻ ngây còn ôm chí cao,
Cố nhân đừng hỏi đến bao giờ về?
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.