Đi coi chỗ để thấy chết đuối,
Thấy đó rồi nghĩ tủi phận ai,
Để đây cho tới ba ngày,
Trông ai nhìn biết được thây chăng là!
Coi thổ mộ có ba chỗ lớn,
Nghe thung reo mà ớn việc người.
Cảnh buồn bực, dạ ngậm ngùi,
Sống cho hết sức, thác rồi còn danh.
Coi chơi đã thị thành cùng hết,
(Câu 1910) Chừ phải toan tính việc trở về.
Càng lâu đắm, càng thấm mê,
Mến người quen đó, nhớ quê hương mình.
Quan bộ thủy cho tin đặng rõ,
Ngày mười hai đến chỗ Toulon.
Trình tờ lãnh giấy cho xong,
Đặng mười bốn xuống tàu Tonkin về.
Vậy thì phải vưng nghe lời ấy,
Ở Paris chẳng mấy ngày cùng.
Song còn coi lễ Chánh chung,
(Câu 1920) Đêm ngày mồng tám thiên trùng người ta.
Cờ tam sắc cửa nhà đều có,
Đèn pha ly các ngõ sáng trưng.
Đi nối gót, bước chen chưn,
Sau dồn tới trước, trước ngừng cảng sau.
Không xe ngựa đi đâu được hết,
Có ghe thuyền khôn xiết nổi đưa.
Phải làm cây sắt ngăn ngừa,
Coi chừng đủ số, liệu vừa chở thôi.
Ngoài Longchamp ra coi binh diễu,
(Câu 1930) Giám quốc ban cờ hiệu các cơ.
Nghe kèn thổi, tới lảnh cờ,
Quan binh kéo kẹo mấy giờ mới thôi.
Đến chiều tối dạo chơi các chỗ,
Đốt cây bông mắt ngó xinh hung.
Tài khôn trí khéo vô cùng,
Pháo làm nhiều cách lạ lùng lắm thay.
Đu nhiều thể đặt bày lạ mắt,
Khi xích nghe tiếng nhạc nhịp nhàng.
Mấy nơi trống, các ngã đàng,
(Câu 1940) Đám reo cười dậy, chỗ đờn địch rân.
Có công việc coi cần mẩn lắm,
Đến chơi bời lại sắm sửa siêng.
Cuộc vui chẳng có lưu liên,
Nội đêm rồi sáng dọn liền như không.
Ngày mười một ruổi dong từ biệt,
Những người quen kẻ biết bấy lâu.
Giã từ chuyện vãn mau mau,
Người đem mắt ngó, kẻ đau lòng dời.
Tới chiều tối ra nơi xe lửa,
(Câu 1950) Thấy huyện Hanh lụy ứa đôi hàng.
Cùng nhau chúc chữ bình an,
Tới ơi từ giã, lên đàng thẳng xông.
Mười hai tới Toulon quen bộn,
Nghỉ ngơi rồi mười bốn xuống tàu.
Xuống tàu máy quạt chạy mau,
Biển trời trông thấy một màu trong xanh.
Ghé các chỗ thị thành như trước,
Bốn mươi ngày về được thảnh thơi.
Đi tới chốn, về đến nơi,
(Câu 1960) Cả nhà vô sự, mọi người bình yên.
Cứ vui đạo thánh hiền noi giữ,
Vốn họ ta hai chữ cung – trường.
Sanh đêm trờ sáng trăng trong,
Nên lời nói đã thì lòng ghi theo.
Theo sách dạy khó nghèo bởi số,
Số khiến nên giàu có tại Trời.
Tại Trời song cũng có người,
Có người gặp vận đắc thời giàu to.
Giàu to cũng muốn cho có nữa,
(Câu 1970) Có nữa thì hằng bữa nhọc lo.
Nhọc lo của cải bo bo,
Bo bo cũng bởi Trời cho giữ tiền.
Giữ tiền được làm nên giàu có,
Giàu có người hay bố thí ra.
Thí ra cho kẻ bần gia,
Bần gia cầu khẩn cho ta giàu đời.
Giàu đời được bởi Trời xuống phúc,
Xuống phúc co tới lúc cháu con.
Cháu con dõi nối tông môn,
(Câu 1980) Tông môn tỏ rạng tiếng đồn gần xa.
Gần xa biết lòng ta nhơn đức,
Nhơn đức nầy nhờ bực thánh hiền.
Thánh hiền vốn bởi người nên,
Người nên thông thái tại chuyên học hành.
Học hành được mới sanh ra trí hóa,
Trí hóa bày cũng lạ trong đời.
Trong đời lập thế thâu lôi,
Thâu lôi cho khỏi đánh người thế gian.
Người thế gian bảy ngàn vẹo mấy,
(Câu 1990) Mấy người tài bày máy móc ra.
Ra công cứu giúp người ta,
Người ta ai cũng gọi là người hay.
Người hay ấy hay bày ra chuyện,
Ra chuyện làm vì miệng phải ăn.
Phải ăn phải ở có ngằn,
Có ngằn có nết mới rằng người khôn.
Người khôn phải cho tròn nhơn ngãi,
Nhơn ngãi tròn mới phải giàu sang.
Sang đàng nói lắm nổi gan,
(Câu 200) Nổi gan làm đến hai ngàn câu thôi!
CHUNG