Khâm thiên giám coi cao lớn trượng.
Nguyên đá xây coi sướng mắt hung.
Lên trên hết, xuống dưới cùng,
Ra ngoài xem máy linh lung xinh kỳ.
Vườn thảo mộc ta đi coi đó,
Được vài muôn thứ cỏ cây đây.
Vẽ hình năm vạn trái cây,
Sách in sáu vạn gồm hay muôn loài.
Mười hai khoảng để hài cốt đủ,
(Câu 1810) Các thứ người thứ thú thứ cầm.
Loài khô chẳng biết mấy trăm,
Các loài ngâm rượu được năm ngàn ngoài.
Nhà nghề ngiệp rộng dài xinh tốt,
Để cân lường máy móc dẫy đầy.
Đồ nghề khéo, thế thần hay,
Của người trí đặt cho tay tài làm.
Hai phủ doãn mới kham trị đó,
Coi việc hình việc bộ tại đây.
Bốn ngàn tên lính tuần sai,
(Câu 1820) Năm ngàn giúp việc chơn tay hai đầu.
Chỗ kinh đô gồm thâu một mối,
Từ thượng hình cho tới tòa sơ,
Có tòa xem xét của kho,
Có tòa gia giảm luật cho công bình.
Có tòa xét việc thình hộ hết,
Có tòa sơ xử việc tầm thường.
Thợ thầy riêng có công đường,
Có tòa quân chánh, có thương chánh tòa.
Chỗ tù đó cùng nhà cấm cố,
(Câu 1830) Có phép quan mới mở cho coi,
Chuyện rồi nhớ lại tức cười,
Thấy tòa lầu lớn tưởng thời dinh quan.
Như hồi trước ra đàng thấy điếm,
Với những khi vào tiệm café.
Nhắm người xinh tốt tợ huê,
Ai dè mặt ấy biết nghề ấy thôi.
Nói luôn thể nhà nuôi con thỏa,
Cho mặc đồ thưa quá mặt rây,
Trái chơi ấy, cục ngộ nầy,
(Câu 1840) Vui vầy vầy lại, lại vầy vầy vui.
Nhiều nhà dưỡng người đui kẻ bịnh,
Có chỗ nuôi quân lính tật nguyền.
Chuẩn mười tám triệu quan tiền,
Mà nuôi hai vẹo mấy tên nghèo nàn.
Mấy nhà thương mùng giường sạch sẽ,
Để dưỡng nuôi người đẻ kẻ đau.
Làm ơn chẳng nệ tốn hao,
Tiền quan cũng có, nhà giàu cũng cho.
Nhà nuôi giúp người cô quả đó,
(Câu 1850) Đếm giường nằm cũng có mấy ngàn.
Người điên cuồng, kẻ khó khăn,
Thấy chăn giữ kỷ, cho ăn uống thường.
Đi tới chỗ nhà trường câm điếc,
Ông l’ Epée lập việc lớn to,
Vào thăm con trẻ Bajot,
Cùng nhau viết chữ chuyện trò thiếu ci,
Quinze-vingts, Saint-Louis lập sản.
Nuôi người mù ngày tháng cho qua.
Dạy bầy trẻ, dưỡng kẻ già,
(Câu 1860) Con trai con gái đàn bà đàn ông.
Tiệm cầm đồ của dùng đem chuộc,
Tính mỗi năm ba chục triệu ngoài,
Thợ thầy chắc lót dư xài,
Có nơi cho gởi chẳng sai vốn lời.
Có lập chỗ nuôi người công trận,
Làn đàng sau xây dáng tròn xinh,
Vào coi mả đá tốt kinh,
Mộ vua ở giữa, có hình đứng quanh,
Mấy trại lính coi canh giờ nhặt,
(Câu 1870) Các kho tàn sắp đặt kỷ cang.
Người dày trí, lại cả gan,
Võ bang chuyên tập, chiến tràng tranh công.
Chỗ chợ chánh tám muôn ngoài thước,
Tiền dùng làm sáu chục triệu quan.
Trên lợp kẽm, dưới cột gang,
Nền nhà đá lót, vách ngăn sắt rào.
Đồ vật thực kể sao cho xiết,
Người bàn buôn chẳng biết bao nhiêu.
Chợ kia chợ nọ còn nhiều,
(Câu 1880) Chợ bông vàng trắng xanh điều xinh hung,
Chỗ trữ rượu mười muôn thước rộng,
Năm dẫy nhà dài trượng lớn to.
Còn nơi vựa lúa tròn vo,
Bạn hàng làm giá rồi đồ chở sau.
Mấy chỗ giếng đào sâu quá sức,
Tới năm trăm tám chục thước sâu,
Các nơi chứa nước lớn cao,
Trên nguồn dẫn đến đem vào uống chung.
Coi các hãng bạc hùng biết mấy,
(Câu 1890) Việc bán buôn xem thấy kinh đời,
Đồ các nước, của mọi nơi,
Lúc xe chở tới, khi người chuyển đi.
Mấy đàng cổng thật kỳ cổ khéo,
Ngồi cộ cho chúng kéo đi coi,
Coi phỉ chí, được sướng đời.
Đời người ai kẻ đắc thời chẳng vui?
Nơi âm phủ xuống coi hài cốt,
Sáu triệu người để một hang dài.
Xương chất trong, sọ sắp ngoài,
(Câu 1900) Coi người nào đó, biết ai đây nầy?