Sa Đéc phong cảnh thi:
Có danh đời cựu phủ Tân Thành,
Sa Đéc vui nay cảnh thích tình.
Đèn Vĩnh Phước ngời hình nguyệt chói,
Cồn Tân Qui nổi dạng cù đoanh.
Nhà dân phố chợ nhiều nơi lịch,
Chùa Phật đình Thần lắm chỗ xinh.
Vườn ruộng ấm no phong tục tốt,
Nhớ Cao hoàng đế thuở trần binh.
Sa Đéc nguyên phủ Tân Thành,
Thuộc An Giang tỉnh đất bình trung châu.
Đổi dời mấy độ bể dâu,
Nước nhà sắp đặt lớp sau chỉnh tề.
Đuôi cồn bồi dưỡng sa nê,
Bố đường thiết lập tư bề vẻn vang.
Trường nam trường nữ của quan,
Ơn trên dạy dỗ lớp lang khéo dùng.
Cầu đường bốn phía rộng thông,
Phố phường đông đảo bên sông phía tiền. (10)
Vĩnh Phước Tân Phú liền liền,
Trên nhà cửa chật dưới thuyền ghe đông.
Tối thì đèn đỏ chói sông,
Ngày thì bôn bán thạnh sung lạc tình.
Làng Tân Dương cảnh thần đình,
Nhơn cơ nghĩa chỉ thái bình oai nghi.
Bởi trên kẻ lớn phải nghì,
Là ông Cai tổng người thì tên Cang.
Hảo tâm xướng thỉ khải đoan,
Nội làng tùng phục sửa an cảnh thần. (20)
Đã liêm cáng, lại thận cần,
Phải trang tuổi tác tu thân vẹn toàn.
Con trai lớn, làm việc làng.
Người con trai thứ chức sang cầm đường.
Hai bên bàn cận thôn hương,
Phong thuần tục mỹ thủ thường chẳng sai.
Đình Vĩnh Phước, bực thứ hai,
Với đình Tân Phú lâu dài vĩnh vi.
Cái Tàu Hạ, với Tân Qui,
Tân Hưng ba cảnh đều thì hạng ba. (30)
Đẹp thay các cảnh chùa ta,
Mấy ông thầy sãi trẻ già rau tương.
Thiên Chúa lầu các một phương,
Cất ở gần đường dưới rạch Cần Thơ.
Mỗi tuần kinh sách phụng thờ,
Người trong bổn đạo tư cơ lâu dài.
Chùa Ông xã Vạt lưu lai,
Nguyên xưa ông ấy sáng khai đến chừ.
Sau Huỳnh Chơn Giác pháp sư,
Học thông nho thích ẩn cư trụ trì. (40)
Khôn lanh chữ nghĩa ai bì,
Tuổi hơn sáu chục hồn quì âm cung.
Làng Phú Hựu Bang biện Long,
Gia tư hào hộ vẹn xong nhơn nghì.
Tánh hay tế hiểm phò nguy,
Ruột gan trải đĩa lắm khi giúp người.
Thung đường cao hưởng tuổi trời,
Miếng ngon vật lạ thảnh thơi phụng thờ.
Cửa nhà bền vững tư cơ,
Ruộng vườn sự nghiệp bây giờ dinh dư. (50)
Người anh rể làm Hương sư,
Tên là Công Trứ gia cư phú hào.
Vợ chồng hòa thuận ra vào,
Nghĩa phương giáo tử thiện giao hữu bằng.
Giữ gìn lương thiện làm căn,
Vẹn tròn ngay thảo lòng hằng thỉ chung.
Châu thành buôn bán thạnh sung,
Tàu đò hai chiếc người đông đi thường.
Ghe đò các chợ ca1cphuo7ng,
Rước đưa đưa rước chật đường xanh quanh. (60)
Trầu cau vườn tược tươi xinh,
Cá hô gà cựa có danh Nam kỳ.
Kẹo đậu phụng, chẳng thiếu chi,
Kẹo nơi Sa Đéc bán thì tiền muôn.
Nhà dân ở, ít chỗ buồn,
Trong vườn ngoài ruộng luôn luôn có nhà.
Lầu quan Chánh bố một tòa,
Mấy ông liêu thuộc xem đà phải quan.
Cựu Đốc phủ Trần Đức Tràng,
Hiền lành nhơn hậu vẹn toàn thân danh. (70)
Nay đà hưu trí lão thành,
Hội đồng nghị viện phận đành dưỡng yên.
Đốc phủ sứ Lê Quang Hiền,
Nguyên xưa quê quán ở miền Bến Tre.
Tánh ngài không siểm không khoe,
Mấy năm giúp nước đồn nghe trong ngoài.
Tang bồng phỉ lấy chí trai,
Khi ra Bắc cảnh cầm đài lưu thinh.
Đến khi Nam địa qui trình,
Các quan liễn đối tặng minh nhiều lời. (80)
Tân Thành để lị thảnh thơi,
Hai mươi năm ngợi một nơi cam đường.
Hàn lâm kiêm khánh chiêu chương,
Bữu Tinh thưởng thọ hiển dương huân thần.
Trước sau vẹn giữ thanh cần,
Tiếng thơm bay khắp từ gần tới xa.
Con trai qua nước Phan-sa,
Học làm thầy thuốc đã đà nên danh.
Người là tên gọi Quang Trinh,
Y thơ các sách giảng minh nhiệm mầu. (90)
Tử tôn thiện nghiệp cơ cầu,
Rạng ngời phước đức làu làu trăng thu.
Thầy thông Nhượng biết chữ nhu,
Yên hà vui thú một câu thanh nhàn.
Thung dung khi rượu khi đàng,
Trời cho phần phước giàu sang về già.
Tân Qui sung thạnh cửa nhà,
Có Hồ Văn Lẫm phải là tên dân.
Làm ăn nổi tiếng vang rân,
Ruột gan trải đãi mấy lầm kinh dinh. (100)
Rủi ro mạng vận chưa thành,
Khiến ra chung cuộc thất dnah hùng hào.
Mé trên sông cái vận đào,
Chỗ Cái Bè cạn lở vào đã lâu.
Bởi vì dọt nước hẫm sâu,
Sóng to gió lớn nghịch nhau phá hoài.
Lở luôn một khúc quá dài,
Quan lớn Sen trước, mả ngài dời xa.
Đội nhờ ân hậu quốc gia,
Giúp tiền cho phép sửa đà chiêu chương. (110)
Tân Thành xứ tốt ruộng vườn,
Thanh hoa đẳng vật thường thường đẹp xinh.
Cù lao đất rộng thinh thinh,
Chỗ sông nước xoáy tắc quanh chảy dốn.
Hồi Luân chữ đặt lưu tồn,
Cao hoàng thuở trước ngự đồn đóng binh.
Còn câu hát hãy đành rành,
Nói luôn cho biết dân tình không nguôi.
Qua sông nước xoáy ngùi ngùi,
Nhớ Cao hoàng trước chúa tôi một lòng. (120)
Đó là sông mé phía trong,
Mé ngoài tục ngữ gọi sông Mương Đào.
Sông Đất Sét, bờ quá cao,
Lên Cái Tàu Thượng giáp vào Long Xuyên.
Điền viên căn bổn bạc tiền,
Rẫy trồng bông trái khắp miền dưới trên.
Phía bên Long Ẩn đi lên,
Thấu nơi Cao Lãnh là bên đất liền.
Trước thi kế cận giang biên,
Sau thì kinh rạch liên liên vân trùng. (130)
Giáp qua Thập Tháp cả đồng,
Lợi nhờ lúa cá dễ dùng dinh sanh.
Cao Lãnh xứ quê mà danh,
Miễu thờ Khổng Tử đại thành tiên sư.
Thuở kia gầy dựng thảo lư,
Chỗ còn hẹp nhỏ chưa dư bạc tiền.
Cựu trào phủ Đính lạc huyên,
Người trong thinh khí của riêng hội tề.
Buổi đầu không mấy phủ phê,
Song le tế tự giữ bề khiết tinh. (140)
Quản bộ Đạo, Phạm Văn Khanh,
Vui lòng lương thiện của mình cúng thêm.
Trùng tu miễu võ trang nghiêm,
Sĩ phu có chỗ ngưỡng chiêm thành hiền.
Nội làng cầu lộ lưỡng biên,
Ông Khanh bồi đáp nhọc siêng tấm lòng.
Đình Thần chùa Phật chùa Ông,
Thảy đều sửa lại ngoài trong rạng ngời.
Nghĩa binh qui tụ Tháp Mười,
Ông Khanh thuở ấy giúp người đặng an. (150)
Ơn nhờ Nhà nước hậu ban,
Cho binh cho súng bảo toàn thôn hương.
Đã lâu về chốn Diêm đường,
Dấu roi tiếng tốt hiển dương phận già.
Hòa An, Tân Thuận, Mỹ Trà,
Hai bên làng xã đều là mang ơn.
Làng Hòa An tục lịch hơn,
Quan viên chức sắc nghĩa nhơn ở đời.
Học hành còn hẫy nhiều người,
Thơ bài đờn địch ăn chơi tiếng đồn. (160)
Vàm Cái Nứa, Vĩnh Thới thôn,
Có ông Cả Thiện lưu tồn thinh danh.
Vợ chồng nhơn đức hiền lành,
Giúp người nghèo khó xanh quanh xóm làng.
Các ngôi chùa miễu sửa an,
Dạy con lễ nghĩa lưu phan gia đình.
Sanh ra nam nữ trưởng thành,
Chia cho phần thực đành rành khuôn viên.
Lạ thay sự tích cô Hiên,
Con ông cả Cẫn ở miền Nha Mân. (170)
Tuổi vừa mười sáu đương xuân,
Chèo ghe rước mẹ rủi chân bị chìm.
Linh hồn trinh nữ lặng yêm,
Thương cha mẹ yếu với em dại khờ.
Ghe phen hiển hiện sờ sờ,
Giúp trong gia đạo tư cơ vũng bền.
Thường khi Châu Đốc đi lên,
Thuở ông Hữu Dực trấn bên An, Hà.
Khi thời dạo xuống đường xa,
Vách thành cửa hữu cây đa Long Hồ. (180)
Khi thời hiện xuống Mỹ Tho,
Khi qua Chợ Lớn ra vô Chùa Bà.
Tới đâu hay cứu người ta,
Thai sanh sản nạn nhiều nhà mang ơn.
Rõ ràng chuyện thật nguồn cơn,
Cũng là tú khí dinh hườn mang ơn.
Diễn ca một cuốn an bài,
Hai mươi hai hạt trong ngoài kể ra.
Vũng Tàu Bà Rịa Biên Hòa,
Qua Thủ Dầu Một lại là Tây Ninh. (190)
Sài Gòn Gia Định thinh thinh,
Chợ Lớn châu thành biết mấy thanh quan.
Hỏa xa kinh quá Tân An,
Đất liền giáp với các làng Gò Công,
Bến Tre với Mỹ dân đông,
Hai bên phong cảnh thạnh sung đẹp tình.
Vĩnh Long qua trấn Trà Vinh,
Sóc Trăng rồi lại kế thành Bạc Liêu.
Cần Thơ thổ địa phì nhiêu,
Trời cho thâu hoạch lúa nhiều vạn thiên. (200)
Long Xuyên Rạch Giá Hà Tiên,
Giáp ra Châu Đốc xuống liên Tân Thành.
Tục kêu Sa Đéc thành danh,
Bổn căn vườn ruộng tươi xinh đầy đường.
Trời đả sắp định phong cương,
Bởi người ăn ở sửa đương mới mầu.
In ra hai cuốn trước sau,
Vắn dài ước bảy ngàn câu đành rành.
Nay đà hai cuốn ấn hành,
Xiết bao cảnh vật linh tinh xa gần. (210)
Kể sơ chánh nghạch bộ dân,
Sáu mươi dư vạn ăn mần các nơi.
Nam phụ lão ấu bộ đời,
Chừng hơn ba tiệu ơn trời hóa sanh.
Trải xem đại khái dân Thanh,
Hơn mười ba vạn dinh sanh mẫn cần.
Ngày nay chánh trị đời tàn,
Tục còn nước cựu nhơn dân lạc nhàn.
Thổ nghi phong cảnh cả ngàn,
Nói sao cho hết mọi làng mọi nơi. (220)
Làm ăn thong thả nghỉ ngơi,
Khi lo mệt nhọc khi chơi bĩ bàng.
Càng ngày đông đảo lịch sang,
Cội nền bảo hộ thạnh an cữu trường.
Quấc âm cứ thiệt điển tường,
Dở hay thêm bớt kính nhường đạt nhơn. (226)
————————— Chung ——————————–