Long Xuyên phong cảnh thi:
Ngùi xem phong cảnh xứ Long Xuyên,
Cám thuở Cao hoàng vận đảo điên.
Hồn núi Thoại Sơn kinh Lạc Dục,
Cù lao Ông Chưởng miễu linh thiên.
Cỏ hoa chim cá mừng non nước,
Chàm đậu tằm tơ đỡ xóm riềng.
Làng tổng nơi nơi đều mỹ tục,
Tâ cần tập tánh tánh càng siêng.
Long Xuyên thuộc phủ tuy biên,
Cựu trào có đặt Tây Xuyên huyện đường.
Vàm đặt Tấn Thủ phân cương,
Lúc Tây Sơn loạn quân thường giữ canh.
Tân trào thiết lập châu thành,
Kêu Long Xuyên hạt đành rành mới sau.
Đất nhiều điên điển cỏ lau,
Qua mùa nước gập ở đâu trôi đầy.
Cù lao Giêng cảnh lịch thay,
Dinh Châu chữ đặt chỗ rày đẹp xinh. (10)
Nhà thờ cao vọi thinh thinh,
Nhơn dân trù mật vui tình ấm no.
Có ông Linh mục siêng lo,
Mỗi tuần dạy đỗ xem lò luật kinh.
Các bà Phước, phận hiền lành,
Phụ công phụ hạnh tu hành chẳng sai.
Tằm tơ nghề nghiệp hôm mai,
Lợi trong thổ sản gái trai đều nhờ.
Ruộng là căn bổn tư cơ,
Rẫy trồng bông trái cõi bờ sáng trưng. (20)
Đất ưa giống lúa Tham Đưng,
Mình cao chịu nước nặng cân khá tiền.
Bắp khoai dưa mía các miền,
Dân cư đạo ngoại tánh siêng năng thường.
Vẻn vang có chỗ học trường,
Trẻ con đèn sách khiêm nhường nết na.
Tàu đò lớn nhỏ lại qua,
Bộ hành lên xuống vào ra dễ dàng.
Các cù lao, các xóm làng,
Lao Giêng thứ nhứt lịch sang tiếng còn. (30)
Thốt Nốt ngang qua Tra Mòn,
Miễu chùa tế tự vuông tròn lễ nghi.
Tang hôn phải đạo nhơn nghì,
Gốc xưa văn học phú thi lưu tồn.
Trà Mòn bí rợ tiếng đồn,
Lấp Vò trứng vịt đã ngon lại nhiều.
Ghe đi buôn bán dập dìu,
Tới hai xứ ấy thảy đều có mua.
Thủ Chiếu Sai xứ quê mùa,
Nhà dân đông đảo miễu chùa nghiêm trang. (40)
Trại cưa dãy dọc dãy ngang,
Chuyên nghề ươm dệt cả làng thói siêng.
Nam phụ nội thôn Tú Điền,
Đều là biết dệt nghề riêng trong nhà.
Xanh quanh mấy chỗ gần xa,
Mua hàng Chợ Thủ tiếng đà thuở nay.
Trời sanh phong thổ cũng hay,
Trên tơ lụa đú dưới cây ván nhiều.
Công ngôn dung hạnh mỹ miều,
Gái hay thêu dệt người đều thanh thao. (50)
Sông Lễ Công, chỗ cù lao,
Miễu quan Chưởng Lễ thuở nào lưu lai.
Đông Nai cũng có miễu ngài,
Nam Vang Châu Đốc lại hai chỗ thờ.
Coi ra hiển hích bây giờ,
Cù lao Ông Chưởng tư cơ đứng đầu.
Nguyễn Hữu Cảnh Lễ Thành hầu,
Sắc phong thượng đảnh thần đâu ví tày.
Nhớn ơn khai quốc nặng dày,
Vua ban tiền bạc dựng gầy miễu cơ. (60)
Xóm làng bồi bổ đến giờ,
Thần linh bảo hộ cõi bờ vững an.
Thường niên tế tự kĩ càng,
Nghi văn trần thiết đoan trang kỉnh thành.
Bể dâu mấy lúc cải canh,
Công thần khai quốc quân danh đời đời.
Rẫy trồng chàm đậu khắp nơi,
Ruộng nhiều giống lúa tiếng thời Tham Đưng.
Rạch ngòi cá mắm làm ăn,
Cá vồ với cá trèn răng ngon thường. (70)
Khá khen các chức bổn thương,
Quốc vương thủy thổ chạnh thương bồi hồi.
Nhớ xưa sự tích ngùi ngùi,
Cao hoàng tìm để chúa tôi ra vào.
Đồn quân thứ, tại Vàm Nao,
Gặp cơn ly loạn xiết bao nạn nhà.
Vàm Nao chữ đặt Hồi Hoa,
Chỗ nhằm mũi nước chảy qua quanh vòng.
Sông Sau sông Trước hai dòng,
Phân ra hai ngã ngoài trong vận đào. (80)
Các ngả gần, chảy nhập vào,
Tục kêu là xứ Vàm nao rõ ràng.
Vực sâu như hố như hang,
Trưởng sanh cá mập tiềm tàng họa ương.
Nay tàu lên xuống đi thường,
Lại thêm cồn nổi hẹp đường Vàm Nao.
Bấy lâu an ổn ba đào,
Còn kình bặt dấu âm hao đến rày.
Rẫy trồng chàm mía nhặt dày,
Khoai dưa bắp đậu ngó đầy nơi nơi. (90)
Làm ăn nghề nghiệp thảnh thơi,
Cả năm vừa cũng sự đời đủ tiêu.
Đốc vàng thượng hạ dập dìu,
Miễu chùa nhà cửa xứ nhiều chỗ linh.
Trên bờ rẫy ruộng thâu thành,
Dưới sông cá mắm dinh sanh cội nền.
Cá Linh từ đó sắp lên,
Bước qua mùa nắng kẹo lền bực sông.
Dầu cá Linh, lò nấu cùng,
Tối thì nổi lửa theo vòng giang biên. (100)
Vợt xúc lên bỏ nấu liền,
Ghe buôn thấy cũng giải phiền tâm trung.
Long Xuyên mùa nước ngập cùng,
Tục dân buôn bán dưới sông nhà bè.
Phường dinh vô thấu nhà quê,
Cất nhà sàn ở kém bề vẻn vang.
Công đường bên niếc bên phang,
Lầu đài cao thấp thanh quan các tòa.
Tàu đò lục tỉnh ghé qua,
Bộ hành cũng có đờn bà đờn ông. (110)
Tàu đi Rạch Giá chực trông,
Chiếc thì của khách chiếc trong hãng mình.
Dân Mên các sóc linh tinh,
Ở theo có xóm ngoài minh mông đồng.
Có ông Quản hạt Hội đồng,
Tên Trần Bá Diệp mẫn thông tiếng đồn.
Trước làm tòa bố Thông ngôn,
Tánh hay kiến gnhi4a xã thôn phục tình.
Huỳnh đường ông Nguyễn Hà Thanh,
Vinh thăng Tri phủ hiển danh xứ mình. (120)
Nghĩa phương giáo huấn gia đình,
Chuộng yêu đạo thánh ngâm bình phú thi.
Tuổi đà bảy chục chưa suy,
Cũng là phải mặt tu mi lão thành.
Làng Mỹ Thạnh Ngô Văn Sanh,
Gốc nhà nhơn đức lịch thanh phú hào.
Làm Hiệp quản, thuở Cựu trào,
Sau làm Tổng việc Tân trào có danh.
Vợ chồng tánh ở hiền lành,
Lúa tiền thường giúp dân tình làm ăn. (130)
Trời cho nhờ hưởng phước thần,
Ông bà khi thác tuổi chừng tám mươi.
Sanh con cháu thảy nên người,
Hội đồng Cai tổng rạng ngời khôi tiên.
Đời Gia Long, thập thất niên,
Ông Bảo hộ Thoại phụng truyền chỉ sai.
Đào kinh Lạc Dục rất dài,
Ngang qua Núi Sập trong ngoài giao thông.
Rồi vừa một tháng nhơn công,
Giáp vô Rạch Giá thương nông đều nhờ. (140)
Hườn thành hạng đạo tư cơ,
Họa đồ với sớ chung tờ tâu dưng.
Vua khen công khó nhọc nhằn,
Cho tên Núi Sập kêu rằng Thoại Sơn.
Vinh như Ông Thoại chi hơn,
Danh tiếng không sờn nơi miệng người ta.
Trào Minh Mạng năm thứ ba,
Thoại Hầu xuất của cất ra miễu thần.
Bên triền Núi Sập gần gàn,
Dựng bia đá lớn tự trần công lao. (150)
Ngày nay xáng lại thêm đào,
Càng sâu rộng nữa càng vào ra đông.
Hai bên đất trống minh mông,
Bên đồng Núi Sập bên đồng Ba Thê.
Tuy là Núi Sập chỗ quê,
Học trường điển xá đủ bề nghiêm trang.
Trên cao có cái nhà quan,
Lính thường canh gác lịch sang để đời.
Khi nào thừa hứng dạo chơi,
CÁc quan tới đó sẵn nơi nghỉ ngồi. (160)
Ba Thê ruộng đất vô hồi,
Ở xen Hớn, Thổ tài bồi chưa sung.
Đất liền tứ hướng không không,
Giáp lên Châu Đốc với đồng Kiên Giang.
Tám tổng sáu mươi xã làng,
Dân thường lạc nghiệp tục an thanh nhàn. (166)