Gò Công phong cảnh thi:
Thanh lịch Gò Công xứ biết chơi,
Địa linh nhơn kiệt quả như lời.
Võ công hùng cứ bia ngàn thuở,
Phạm tộc phủ thờ quới một nơi.
Phía trước nhiều ông danh tiếng rạng,
Nối sau chán kể hiển vinh đời.
Năm thìn ruổi mắc cơn giông bão,
Dựng lại bằng xưa cũng phước trời.
Gò Công huyện nhỏ một nơi,
Mà danh tiếng tốt từ đời Gia Long.
Thuở đương đạo tặc hành hung,
Có ông Võ Tánh xưng hùng Tước Nguyên.
Tây Sơn kinh quá đến miền,
Kéo ra áp đánh giết liền chẳng tha.
Tụ binh hơn vạn người ta,
Giữ gìn nội hạt gần xa an nhàn.
Làu làu một tấm trung cang,
Hẫy chờ chu1a rạng mới an đề huề. (10)
Nghe Cao hoàng, ở Xiêm về,
Đem quân bộ hạ chỉnh tề qui lai.
Tam hùng tiếng nổi thuở trai,
Ngày nay tá quấc bao nài gian nan.
Hiện còn miễu ở trong làng,
Nơi châu thành phố rõ ràng anh linh.
Một vùng chánh khí lưu hình,
Ngài lên giàn hỏa tại thành Qui Nhơn.
Hồ tiêu phách hóa chi sờn,
Phải trang hào kiệt danh hườn non sông. (20)
Bốn mùa hương hỏa thạnh sung,
Bởi vì hương chức Gò Công có lòng.
Kẻ nhiều người ít chung cùng,
Lập thành Hội quán quấc công miên trường.
Cuộc đời trải mấy tang thương,
Dấu roi thủy thổ quấc vương của mình.
Cũng là trung hậu chơn tình,
Lưu truyền hậu thế phụng hành chiêu chương.
Cò Công nhiều ruộng ít vườn,
Cả trong toàn hạt cao lương địa phì. (30)
Xem trong mấy hạt Nam kỳ,
Gò Công đất nhỏ lắm thì phát quang.
Cựu trào Quấc mẫu Tiên hoàng,
Tân trào kế phát chức sang liền liền.
Đốc phủ, phủ, huyện, quan viên,
Tra tàn măng mọc hậu tiền nối nhau.
Bốn tổng dân cư đông giàu,
Mà tiếng có một Bà Hầu giàu to.
Hải vật cá, tôm, cua, sò.
Thứ tươi thứ hấp thứ kho bộn bàn. (40)
Cải bẹ xanh, trồng nhẩy tràng,
Cải dưa, ngồng cải, tiếng càng đồn xa.
Thường khi tiền bạc vô ra,
Đủ ăn đủ bận nhà nhà ấm no.
Cà cuống vật cũng lạ cho,
Con đuôn béo ngọt thơm tho mĩ miều.
Chà là trong ngọn có nhiều,
Rừng kề má biển mọc đều giăng giăng.
Hết đông sang lại đầu xuân,
Ghánh mùa ấy có đuôn ăn chà là. (50)
Vật hay bổ dưỡng người ta,
Mấy hạt gần biển sanh ra đuôn nhiều.
Thuở kia Truông cóc quạnh hiêu,
Chỗ nhiều hùm cọp người đều sợ ghê.
Nay đà khẩn phá tư bề,
Lợi nhờ rẫy ruộng phủ phê ở đời.
Tiếng xưa đám lá – tối – trời,
Có ông Trương Định trãi phơi gan vàng.
Một phương cờ nghĩa nổi vang,
Xưng làm Đại tướng giúp an triều đình. (60)
Ai dè cô chưởng nan minh,
Lưỡi gươm đâm bụng liều mình như chơi.
Nên không số hệ ở trời,
Há đem thành bại luận người hùng anh.
Làm trai cho có thân danh,
Dấu bia tạc với non xanh chẳng già.
Nay còn một gã tôi nhà,
Tên Đốc binh Chấn cũng là thảo ngay.
Bền lòng chẳng chút động day,
Đai cơm bần rượu no say phận nghèo. (70)
Thương thầy gặp lúc hiểm eo,
Riêng làm ngôi miễu thờ theo lối vườn.
Viên quan chức sắc bổn hương,
Rủ nhau kiện Chấn tụng đường lôi thôi.
Kế vừa bảo tới một hồi,
Ngày nay chưa biết tu bồi nữa không.
Ngọn rau tấc đất khuyên cùng,
Chớ lòng bạc cựu chớ lòng hậu tân.
Xưa kia đất ấy những bần,
Lá dừa rậm rạp nhơn dân chưa về. (80)
Ngày nay khai phá ê hề,
Đâu đâu bờ cõi chỉnh tề cân phân.
Bình Phục Nhì thôn cũng gần,
Tổng Hóa Đồng Thượng địa phần Rạch Trâu.
Tiếng truyền rạch ấy đã lâu,
Thường niên trâu dậm khỏi âu cạn cùng.
Chuyện thì không mấy lạ lùng,
Song mà tập tục phải dùng thuở nay.
Gò Sơn Qui, cảnh tốt thay,
Mả quan Thượng lễ chôn ngay giữa chừng. (90)
Ngài là tên Phạm Đăng Hưng,
Đốc sanh Từ Dũ Tiên quân Mẫu hoàng.
Quấc công truy tặng rõ ràng,
Nh2 thờ Phạm tộc tại làng Giồng Qui.
Tiếng còn thích lý vĩnh vi,
Bông hoa cây trái vật gì cũng xinh.
Thiệt là một chỗ địa linh,
Phát Hoàng thái hậu hiển vinh họ hàng.
Năm trước ngự giá ngai vàng,
Vua Thành Thới đến viếng an phủ thờ. (100)
Hai bên hương án đầy bờ,
Viên quan hương thức chực hờ bái nghinh.
Lễ gnhi phẩm tiết nghiêm minh,
Cửu trùng hoan hỉ lạc tình thiên nhan.
Gò Công nước uống gian nan,
Mà nơi giồng ấy nước càng ngọt hơn.
Đất nhằm kiết cuộc thủy sơn,
Như mô rùa dạng, thường cơn vun hoài.
Tả long hữu hổ an bài,
Hộ phò con cháu rộng dài bền lâu. (110)
Vững vàng giềng mối về sau,
Giữ gìn cội gốc sửa trau vun trồng.
Cậu hai Ân, cậu tư Trung,
Nay đều thăng thọ ban dùng chức sang.
Hàn lâm thị giảng rõ ràng,
Phấn vua ơn nước thêm càng vinh hoa.
Gò Công tiểu hạt tuy là,
So bề danh giá ai qua đặng nào.
Ông Huỳnh Công Tấn ngôi cao,
May thời gặp vận như phao một hồi. (120)
Trở thương ông Định vừa rồi,
Quấc gia trọng thường chức ngồi Lãnh binh.
Nổi lên sự nghiệp hiển vinh,
Mau tràng mau nhẩy như chình nước nghiêng.
Cuộc chơi chẳng tiết đồng tiền,
Đá cân làm bạc vạn thiên chi màng.
Mấy năm oanh liệt một tràng,
Ruộng vườn dinh dãy giàu sang ai bì.
Sự đời nháy mắt hưng suy,
Thiên cơ báo ứng tốc trì hiển nhiên. (130)
Bao nhiêu hoa ốc phì điền,
Lang tôn quế tử hóa miền không không.
May còn thạch trụ ghi công,
Dựng nơi trước chợ Gò Công rõ ràng.
Còn hội Chùa Ông trong làng,
Nguyên khi Ông Tấn làm quan có quyền.
Cúng vào một sở gia điền,
Rủ thêm hương chức chung tiền lập ra.
Ngày nay huê lợi ruộng nhà,
Mỗi năm thâu đặng hơn ba trăm đồng. (140)
Anh em trng hội niệm lòng,
Nơi nhà Tiền Vãn tại dòng trung gian.
Thờ Huỳnh Công Tấn nghiêm trang,
Có hai câu đối rỡ ràng còn nguyên.
Dinh quan Chánh bố phía tiền,
Nhà Thương nhà phước cất liền xanh quanh.
Đình thần ở giữa châu thành,
Trước thì Nhà Việc rộng thinh hai bề.
Xe hai bánh sắm ê hề,
Ghe lồng ghe cửa các bề đẹp đông. (150)
Văn chương đờn địch xảo thông,
Rổ-ô lại với mát-thong khéo nghề,
Miễu chúc tuy ở xứ quê,
Lễ nghi tế tự chỉnh tề thạnh sung.
Gốc nhờ đạo thánh vun trồng,
Nên người khẳng khái hẩy lòng sắc son.
Tang, hôn, phẩm tiết vuông tròn,
Vãn lai thù tạc tục còn tương đôn,
Hòa Lạc Hạ, Bình Ân thôn,
Thành hoàng miễu võ nghiễm tôn tu bồi. (160)
Bảy lần bảy nóc một ngôi,
Qui mô cách thức chiếm khôi các đình.
Tước nguyên chỗ thiệt có danh,
Giàu sang cũng lắm lịch thanh cũng nhiều.
Đường nước không có bao nhiêu,
Từ vàm vô chợ rạch đều quanh co.
Đã có xả-lúc tàu đó,
Lại thêm Lục tỉnh tàu to ghé hoài.
Rạch Chùa cần bến ở ngoài,
Mỗi tuần Chúa nhựt đặng vài lần qua. (170)
Côn, Kình, bặt dấu phong ba,
Người an nệm chiếu hải hà bất dương.
Mới lập đôi sở Thánh đường,
Đọc kinh xem lễ ngày thường chưa đông.
Trường quan trường tổng ngoài trong,
Mấy thầy dạy dỗ vẹn xong phận mình.
Hậu sanh cần mẫn học hành,
Dần qua trường lớn tạo thành hữu nhơn.
Ông chủ Thiều, ông huyện Ngươn,
Với thầy tú Hội rượu đờn phú thi. (180)
Ông quản Tá chuyên nghiệp y,
Chủ Hùng, cả Thuận đều qui diêm đình.
Ông Tá nho nhã hiền lành,
Ông Hùng, ông Thuận miễu đình sửa sang.
Thương thay thế biến ly loàn,
Khuôn viên lớp trước điêu tàn không lưa.
Hồi còn đạo học dây dưa,
Văn chương phong nhã cách chưa tiêu mòn.
Lâu lâu qua đến đời con,
Thói đời lần đổi vuông tròn đặng đâu. (190)
Vậy nên mấy cậu sanh sau,
Chữ tây ăn học lo cầu xuất thân.
Thầy Phó tổng, Huỳnh Đình Ngân,
Việc quan khẳng khái thận cần mẫn thông.
Trước làm Địa hạt Hội đồng,
Mỗi khi nhóm cãi Gò Công đặng nhờ.
Gốc nhà nghĩa chỉ nhơn cơ,
Cha xưa biết học đến giờ còn danh.
Hiện tồn sự nghiệp kinh dinh,
Mẹ thì giàu lớn châu thành Tước nguyên. (200)
Chợ Giồng thầy Cai tổng Tên,
Người thông chữ nghĩa đức hiền tánh chơn.
Xã thôn nhiều kẻ mang ơn,
So coi các tổng tốt hơn người nhiều.
Lắm trang gia phú lẩn kiêu,
Tiềm trang kinh sử vắng hiêu trong làng.
Giáp thìn trận bão tan hoang,
Bước qua Ất tị họa man cào cào.
Gò Công xiết mấy hư hao,
Trời sanh trời dưỡng biết sao mà phòng. (230)