Cần Thơ phong cảnh thi:
Phong cảnh Cần Thơ phát tự nhiên,
Mấy năm khai khẩn đất thành điền.
Lầu đài quan bố nơi san thủy,
Kho lẫm nhà giàu lúa vạn thiên.
Xe kiến sắm đưa hằng chực rước,
Ghe hầu kiểu đóng khéo khuôn viên.
Đạo nhu chữ nghĩa còn roi dấu,
Nhờ bởi người xưa gốc dạy truyền.
Cần Thơ xứ lắm bạc tiền,
Bởi vì thổ sản điền viên cả ngàn.
Chín tổng trong chín mươi làng,
Ruộng thuộc ruộng khẩn muôn vàn biết nhiêu.
Vườn nhờ huê lợi cũng nhiều,
Bông hoa cây trái mỹ miều thường niên.
So cùng mấy hạt các miền,
Cần Thơ thứ nhứt mối giềng giàu sang.
Châu thành sở tại Tân An,
Dưới kinh trên lộ dọc ngang tư bề. (10)
Phố phường lầu các chỉnh tề,
Phía tiền một dãy bực tề thẳng ngay.
Trên bờ buông bán đông dầy,
Dưới thì ghe cộ dậu dày ngoài trong.
Lài lài đá cẩn mé sông,
Cầu tiêu sạch sẽ dân không hiểm nghèo.
Đường thì đèn thắp sáng đều,
Cầu tàu hai chỗ cao hều thẳng bằng.
Tàu đò lớn nhỏ lăng xăng,
Ghe đò các chợ giăng giăng nẻo đường. (20)
Súp lê kêu gọi thường thường,
Rước đưa đưa rước các phương bộ hành.
Phang tòa nội ngoại chư dinh,
Dựa kề sông cái ruộng thinh giai cù.
Quan chánh bố Đờ-La-Nu (Delanone),
Ngài hay kinh lý chỉnh tu mẫn cần.
Trước đà sửa hạt Sóc Trăng,
Siêng năng danh tiếng xa gần ngợi vang.
Các nơi trường tổng trường làng,
Sở tại thành phố trường quan đông dầy. (30)
Quan Giám đốc tên U-Trây (Outrey),
Nam kỳ Phó soái ngày nay đương quyền.
Bấy thu giúp nước nhọc siêng,
Sửa sang Dầu Một mối giềng mới đây.
Khi đấu xảo thành Mạc-xây (Marseille),
Ngài làm đầu hội ra tay điều đình.
Trước sau biết mấy công trình,
Phải trang lẫm liệt cang thành quốc gia.
Quảng Đông công sở một tòa,
Đồng tâm sáng tạo cất ra bên đường. (40)
Gốc còn chữ nghĩa văn chương,
Miễu chúa tế tự tỏ tường lễ nghi.
Tang hôn ngộ sự bất kỳ,
Vãng lai thì tạc phải nghì tương thân.
Cần Thơ cảnh rất thanh tân,
Mấy thầy tùng chánh mẫn cần việc quan.
Bấy lâu ruộng đất mở mang,
Nay đà nên chốn muôn ngàn phiền hoa.
Lúa nhiều thì bạc đầy nhà,
Thiên thời địa lợi đặng và hai bên. (50)
Miễu thần cách mới sửa nên,
Tại Tân An xã dưới trên một tòa.
Cất làm như kiểu chùa Bà,
Xuân kỳ thu báo thuận hòa nghiêm trang.
Quản hạt ông Hồ Bảo Toàn,
Hàm Đốc phủ sứ khí ngang tánh hùng.
Lưu tâm cần cán nghiệp nông,
Mấy trăm mẫu ruộng ở đồng Xẻo Môn.
Qui dân ước đặng tiểu thôn,
Lập thành qui củ khéo khôn ở đời. (60)
Trúng mùa mình đặng thảnh thơi,
Hưởng nhờ lúa gạo lộc trời làm ra.
Rừng sậy phần tổng Định Hòa,
Mười ba thôn xã xứ mà làm voi.
Nguyên xưa đất rộng hẳn hòi,
Kinh chưa đào mở rạch ngòi chưa thông.
Qua mùa nước ngập minh mông,
Voi trên sống lớn xuống rông băng ngàn.
Lâu lâu quen ở đã an,
Dậm bờ đạp lúa cả đoàn hơn trăm. (70)
Kinh đào đường mở mấy năm,
Xà No, Đông Lợi, Láng Hầm, Ô Môn.
Lũ voi sanh đẻ dập dồn,
Các ông thợ bắn các thôn hiệp vầy.
Biết bao công cán năng dày,
Bốn mươi dư thớt bắn rày mới an.
Ngà voi bán có bạc ngàn,
Lại thêm trừ bớt khốn nàn nhà nông.
Càng ngày thêm thạnh thêm sung,
Nhẩy tràng hột lúa lưu thông Nam kỳ. (80)
Ghe bầu nội hạt thiếu chi,
Khôn lanh kiểu vở nhứt thì Cần Thơ.
Nhơn dân bền vững tư cơ,
Hiềm vì một nỗi tục chưa mỹ thuần.
Thường khi đạo kiếp thành quần,
Tòa sơ phân xử mỗi tuần nhọc siêng.
Đại hình giải lại Long Xuyên,
Thường nghe kêu án dân miền Cần Thơ.
Lịch thay các sở nhà thờ,
Đọc kinh xem lễ ngày giờ lệ siêng. (90)
Trên thì Linh mục dạy khuyên,
Thâm nhờ bà phước đức hiền tu thân.
Cù lao nội hạt xa gần,
Thanh lịch thế thần mình chỗ Lao Mây.
Trời sanh cảnh cũng đẹp thay,
Ruộng vườn giồng rẫy nhặt dày ba thôn.
Lịch thay địa cuộc Trà Ôn,
Miễu ông Điều Bát lưu tồn đến nay.
Người Mên mà dạ thảo ngay,
Ngàn thu huyết thực hiện bày anh linh. (100)
Xóm làng tế tự kính thành,
Ngọc rau tấc đất đã đành nhớ xa.
Chợ Cái Răng, xứ hào hoa,
Phố lầu hai dãy xinh đà nên xinh.
Có trường hát, cất rộng thinh,
Để khi hứng cảnh thích tình xướng ca.
Chợ Bình Thủy, ông Thủ khoa,
Tên Bùi Hữu Nghĩa gốc nhà nho lâm.
Công phu đèn sách mười năm,
Lúc ra ứng cử đậu nhằm giải Nguyên. (110)
Bình sanh chí đạo thánh hiền,
Thiền tư chánh trực tâm điền hào hoa.
Thường khi sắp đạt nôm na,
Bổn tuồng Kim Thạch diễn ca khéo lời.
Với Huỳnh Mẫn Đạt đồng thời,
Hai ông thơ phú làm chơi bộn bàn.
Rủi ro gặp lúc binh hoan,
Chí cam ẩn dật phận an thanh bần.
Mình không xu phụ thế thần,
Vẹn toàn danh giá xa gần ngợi phong. (120)
Tác thành môn đệ cũng đông,
Nay còn còn cháu sĩ nông thủ thuờng.
Ông Minh sư Thảo Phật đường,
Hiệu xưng Nam Nhã giữ đường chơn tu.
Gốc người xảo biết chữ nhu,
Lặp chùa nay đã mấy thu thanh nhàn.
Tắc-Bàu-Hút, cảnh cũng sang,
Cửa nhà đông đảo dân an ruộng vườn.
Bát-Sa-Ma, các thôn hương,
Tại Tuần Giáo tổng chỗ đường Thợ Đôi. (130)
Đất rừng ruộng tốt vô hồi,
Bởi người ra sức tài bồi mấy đông.
Nay thành một sở minh mông,
Qui dân tụ chúng cả đồng vạn thiên.
Xa quan cách trở một miền,
Người Mên kẻ Hớn liền liền thói gian.
Trâu ghe lậu liễu hoa tàn,
Ở trong địa phận xóm làng giăng giăng.
Chợ đông buôn bán lăng xăng,
Cần Thơ thứ nhứt Cái Răng thứ nhì. (140)
Ô Môn, Bình Thủy, La Ghi,
Trà Ôn, Trà Luột đều thì chợ sung.
Chợ Phong Điền, nhóm quá đông,
Cái Vồn chợ ở ruộng đồng quanh xa.
Cần Thơ sông cái ngang qua,
Tới vàm Từ Tải luôn ra Cái Vồn.
Khắp ngàn vườn ruộng hương thôn,
Giáp qua Sa Đéc chỗ đồn Nha Mân.
Trời sanh địa cuộc thanh tân,
Sông Sau Sông Trước đường gần giáp ngang. (150)
Tứ Tải vàm bên Hậu Giang,
Nha Mân vàm phía Tiền Giang các cồn.
Thông nhau bởi rạch Cái Vồn,
Ghe buôn qua lại tiếng đồn thuở nay.
Chiếc lui chiếc tới đông dầy,
Hai đầu giáp nước nhặt dày vào ra.
Lưỡng biên sung túc cửa nhà,
Vường trồng cây trái bông hoa cũng nhiều.
Nhà thờ trường học mỹ miều,
Đình Thần chùa Phật cảnh đều vẻn vang. (160)
Cầu Kè chợ cũng kĩ cang,
Nhơn dân phố xa lịch sang chỉnh tề.
Hớn Mên với khách ê hề,
Đất nhờ hoa lợi phủ phê viên điền. (164)