Cuốn 1: Gia Định

Gia Định phong cảnh thi:

Gia Định thành xưa trọng một phương,

Nhớ Cao hoàng đế thuở hưng vương.

Mả ông Đa Lộc bền rường cột,

Miễu Tả quân Lê thạnh lửa hương,

Dâu biển trải bao đời đổi cuộc,

Ngựa xe vòng lớn thả dầm đường.

Xóm làng phong tục đều trung hậu,

Tiếng tốt ngàn thu hãy tạc gương.


Gia Định là đất hưng vương,

Cao hoàng phục quốc phong cương sắp bày.

Thành xây tám cửa rộng dày,

Quan quân dân thứ đông đầy ngoài trong.

Thuở kia lục tỉnh nam trung,

Kêu người Gia Định tiếng dùng đã lâu.

Tân trào cai trị lớp sau,

Đổi thay kêu gỏi đâu đâu cũng đà.

Hạt Bà Chiểu làng Bình Hòa,

Kêu rằng Gia Định vậy mà đến nay. (10)

Ông Lê Văn Duyệt rất hay,

Phan An tọa trấn sửa xây kim thành.

Ngài là tú khí chung linh,

Xuất thân Thái giám tài danh phi thường.

Phó thang đạo hỏa chiến trường,

Dư trăm trận đánh trải đường binh nhung.

Giải dầu biết mấy lao công,

Phò an chơn mạng Gia Long thái bình.

Khi ra kinh lược Nghệ, Thanh.

Vỗ quân cừ thủ tặc danh ra đầu. (20)

Thương Khôi trí nhiệm sức mầu,

Xin vua xả tội uổng âu tài lành.

Khôi theo Lê công qui trình,

Khỏi nơi Quản Nghĩa tới thành Qui Nhơn.

Ghé vào Tháp cảnh Tiên Sơn,

Thăm ông Võ Tánh nguồn cơn một hồi.

Cám xưa sự tích ngậm nguồi,

Dạy Khôi kíp vịnh một bài thất ngôn.

Khôi vưng lịnh Quan lớn làm bài thơ:

Kinh quá Qui Nhơn cứu thành Hữu Cảm (30) 

 Thơ rồi dưng trước tướng môn,

Lê công khen ngợi khéo khôn lược đồng.

Trảo nha huy hạ rất đông,

Khôi thường hầu dựa trướng trung luận đàm.

Nhâm thìn Minh Mạng thập tam,

Lê công bịnh cố nơi Nam Trấn thành.

Xuân Nguyên bố chánh Định Thành,

Ghét người lương đống tệ tình bày ra.

Đòi lũ Khôi tới hỏi tra,

Duyệt kia Duyệt nọ quở la vang rền. (40)

Khôi liền tức giận nổi lên,

Xót tình chủ tớ hóa nên tan tàng.

Nhóm quân tù phạm lấy thành,

Ba năm chiếm cứ tung hoành một nơi.

Ơn vua phép nước tày trời,

Ngỡi thầy tình tớ lưng vơi khôn tròn.

Làm trai đứng giữa sông non,

Rủi lâm nghịch cảnh mất còn kể chi.

Người nơi chín suối trọn nghì,

Ta mang thiếng ngụy cũng thi lòng cam. (50)

Sóng kình xa dợn biển Nam,

Đánh liều sức mọn mà đam tự cường.

Chuyện đà cách mấy năm trường,

San hà đồ sộ tang thương đổi dời.

Thạnh suy đã cách cuộc đời,

Lê công trung liệt gan phơi đến giờ.

Nay còn mả với nhà thờ,

Tục kêu lăng miễu cõi bờ khuôn viên.

Ơn nhờ nhà nước ban tiền,

Tu bồi miễu mộ phía tiền sắc song. (60)

Ông Huỳnh Cao Khải có lòng,

Cúng làm một chỗ Lê công bia đình.

Thật là trọng nghĩa hậu tình,

Tốn hao đồng bạc ước đành bảy trăm.

Há rằng côn cán bao lăm,

Mà nên dấu tốt muôn năm tỏ tường.

Người Phiên Ấp, tên Mộng Dương,

Nam kỳ kính quá vào chường miễu môn.

Đề bài thi, hãy lưu tồn,

Lược xem văn ý khéo thôn diệu hòa. (70)

Cách vừa một đỗi xa xa,

Có lăng cha Cả tên là Vê Rô.

Sang Nam dạo khắp hải hồ,

Dạy người học đạo lộ đồ tân toan.

Ghe phen giúp đức Cao hoàng,

Chịu lời ký thác băng ngàn Đại Tây.

Mấy năm ơn nặng ngỡi dày,

Phò Đông cung Cảnh lòng ngay rạng lòa.

Nay còn lư mộ một tòa,

Tục kêu lăng Cả trải đà mấy đông. (80)

Hiện tồn bia chí tặng phong,

Thái tử thái phó, Quận công rõ ràng.

Cỏ cây im ái tứ bàng,

Lăng Cha Cả với giang san vững bền.

Trời cao vọi vọi ở trên,

Đức Thầy linh sảng chầu bên thiên đường. (86)

Mộ bia của Đức Gia Long truy tặng cho Đức Thầy:

 

Châu Thành thanh lịch neo đường,

Vòng lớn vòng nhỏ xe thường vãng lai.

Xe lửa luôn tối đến mai,

Bộ hành Gò Vấp gái trai đông hoài. (90)

Phan dinh nghiêm chỉnh trong ngoài,

Học trường giáo dưỡng nhơn thiếu niên.

Phố phường đôi dãy tương liên,

Dân cư đông đúc riêng riêng theo nhà.

Đình chùa lăng miễu các tòa,

Nhứt là Bình Hòa hai nửa Hanh Thông.

Thợ nhuộm ở tại Hanh Thông,

Tiếng thợ Gò Vấp tục đồng biết danh.

Miễu Nổi phong cảnh rất xinh,

Nơi giữa Bến Cát thiên thành tự nhiên. (100)

Cây gừa sanh trưởng kinh niên,

Rễ bao tàng phủ lưỡng biên vững vàng.

Một thì sẵn đá hàng,

Đỡ bồi nền miễu rõ ràng trời sanh.

Mặt tiền cát trắng sạch tinh,

Tiền đường trên bãi xanh quanh lót sàn.

Ngũ hành thờ phượng nghiêm trang,

Ghe đi qua lại hay van vái bà.

Thiện nam tín nữ gần xa,

Tam ngươn tứ quí đều ra cúng thường. (110)

Phải là một chỗ Tiêu Tương,

Tục kêu Miễu Nổi chiêu chương đã đà.

Tây Ninh có núi Điện Bà,

Đây thời Miễu Nổi đều là địa linh.

Nhứt sơn nhứt thủy hữu tình,

Há rằng lớn nhỏ trọng khinh đôi đường.

Hèn chi ông Diệp Văn Cương,

Đề Phù Châu miễn chữ tường biển son.

Lâu dài trời đất sông non,

Trăm ngàn thu dưới miễu còn tạc danh. (120)

Đôi ba làng cạnh Châu Thành,

Đờn ông lắm kẻ dinh sanh Sài Gòn.

Thứ nhứt là sở Ba Son (Arsenal),

Rây rây các sở vợ con đủ dùng.

Xuân Trường mạch nước rất trong,

Có cất nhà mát công đồng để chơi.

Khi nào thừa hứng sẵn nơi,

Các quan tới đó nghỉ ngơi rượu trà.

Trừng thanh thủy để kiến sa,

Tắm vào im tóc mát da cả ngày. (130)

Trong mười tám tổng rộng thay,

Thổ nghi sản vật lược bày ra sau.

Đậu mè cải bắp trầu cau,

Thơm dừa măng mít mãn cầu xoài voi.

Nhãn lồng tươi ngọt hẳn hòi,

Thuốc gò trà đọt mặn mòi thơm ngon.

Cần giờ cửa biển thon von,

Tôm cua sò cá vật ngon bộn bề.

Nhà tây lầu các chỉnh tề,

Dễ con hóng mát khi về khi đi. (140)

Nước thời linh láng tứ vi,

Sâu nơi lòng lạch dễ thì vào ra.

Bãi dài, cồn vược, ăn xa,

Vọng đăng hai chỗ nhắm mà ngay nhau.

Khỏi bề tăm tối lo âu,

Ghe thơ đậu bến nghe tàu xúp lê.

Trên bờ địa lợi phủ phê,

Dân cư rẫy ruộng ê hề lúa khoai.

Trái cây có mản cầu dai,

Ăn vào thơm ngọt ai ai cũng dùng. (150)

Người Thanh ở đó quá đông,

Làm ăn trên đất dưới sông đủ nghề.

Cá Trê, Giống Tố, Nhà Bè,

Hai bên ruộng đất ngó mê cả đồng.

Nhà Bè sông gọi Phước Long,

Truy nguyên sự tích tiếng dùng không sai.

Thuở xưa đường bộ chưa khai,

Đem ghe kết lại cho dài mà đi.

Nước lớn thả lên một khi,

Nước ròng thả xuống vậy thì cũng xong. (160)

Cực vì ghe hẹp ngoài trong,

Khi cơm khi nước khó lòng nấu ăn.

Phú hộ là ông Thủ Hoằng,

Thưởng người khổ não lăng xăng tư về.

Bỏ tre trên cất nhà bè,

Sắm đồ thập vật ê hề làm ơn,

Để mà tế cấp hành nhơn,

Chẳng thèm tính thiệt so hơn lằng xằng.

Dân bèn bắt chước Thủ Hoằng,

Nhà bè sắm sửa giăng giăng cất đều. (170)

Nhóm nên chợ nước dập dìu,

Nay còn để tiếng tục kêu Nhà Bè.

Đến sau giặc giã bộn bề,

Nhà Bè phá hết chẳng hề còn chi.

Lá dừa nước trong Nam kỳ,

Nhà bè tứ phía vậy thì đầy sông.

Tân An, Mỹ, với Gò Công,

Là dừa huê lợi nhẩy đồng biết nhiêu.

Miền trên các hạt cũng nhiều,

Lá chầm lá xé tên đều khác xa. (180)

Cũng là dùng để lợp nhà,

Coi thời vật mọn mua ra bạc ngàn.

Đồn Cá Trê nay rõ ràng,

Có kho dầu lửa của quan tạo thành.

E khi hỏa hoạn thình lình,

Làm ra xa cách để dành phòng sau.

Đồn Tam Kỳ rạch rộng sâu,

Có hãng trữ dầu tên Ết-Bê- Đên (Speidel).

Cần lao thương cuộc khá khen,

Gốc người Đại – Đức Rút – Sen (Prussien) kinh thành. (190)

Phú Xuân địa cảnh rất xinh,

Thủ Thiêm, Xóm Chiếu, Châu Thành chẳng quê.

Nhơn dân sanh ý no nê,

Không giàu sang mấy mà bề thảnh thơi.

Tục hay trà rượu ăn chơi,

Đấu kê đổ bát lắm nơi điếm đường.

Thị Nghè có sở nhà thương,

Của các bà phước sữa đương mối giềng.

Nuôi người bịnh hoạn nhãn tiền,

Mảng lo cơm thuốc cho thuyên mới đành. (200)

Nhà Đức Chúa Trời hiển linh,

Xưa còn nhỏ ít nay thành lớn đông.

Một tòa thứ lớp ngoài trong,

Nơi nơi sắp đặt đều lòng ngỡi nhơn.

Lại thêm nhà nước ra ơn,

Mỗi năm cho bạc giúp cơn thích dùng.

Thủ Đức chợ nhóm rất đông,

Hai bên phố xá chánh trung nhà làng.

Đình thần vén khéo nghiêm trang,

Thường niên tế tự kỹ cang kỉnh thành. (210)

Dấu xưa chữ nghĩa học hành,

Nay hãy để dành khí tập phong thinh.

Thuở kia ông Tạ Dương Minh,

Lập chợ Thủ Đức tại Linh Chiểu rày.

Mả người cải táng mới đây,

Bởi làng xin bạc đổi xây mộ phần.

Quan trên niệm nghĩa thi ân,

Cho ba trăm rưỡi trùng tân giai thành.

Hương chức ở rất hậu tình,

Mỗi năm ngày kỵ xanh quanh tới đều. (220)

Nam phụ lão ấu dập dìu,

Hương đăng trà quả mĩ miều khiết tinh.

Miễu đề chữ Tạ Dương Minh,

Cất riêng ra chỗ một mình qui mô.

Đã tu miễu lại đắp mồ,

Mĩ tai nhơn lý thạnh hồ nghĩa phong.

Huê nghiêm chùa Phật thôn trung,

Huệ Lưu giáo thọ bền lòng chơn tu.

Mình vào trong thất tối mù,

Xác thiền hồn dõi tây du trọn nghì. (230)

Thiệt là phải đạo từ bi,

Kể chi danh lợi luận gì phát thu,

Thà cam tiên hữu Phật trù,

Siêu thăng tịch độ cỡi cù chơi mây.

Hiềm vì lão mẫu còn đây,

Đặng danh mất hiếu làm thầy sao xong.

Có một sở trường thầy dòng,

Bên chợ Thủ Đức nơi trong nẻo đường.

Bày ra cách dạy tỏ tường,

Bổn căn qui củ của trường Ta – Be (Taberd). (240)

Ơn trên Thiên Chúa chở che,

Dưới nhờ Linh mục khéo bề sữa đương.

Lớp thời kinh sách đọc thường,

Lớp thời bút toán văn chương tập cần.

Học trò đương lúc thanh xuân,

Bền công gắng sức dần dần thời nên.

Thêm trường địa hạt một bên,

Tốn hao của nước ơn trên nặng dày.

Dạy hay là phận ông thầy,

Trẻ con ăn học phải rày cho siêng. (250)

Bến Thơm phía dưới đất liền,

Ngó in như chợ ở miền gần sông.

Qua đến mùa thơm thì đông,

Chở thơm tới đó không không bữa nào.

Ghe buôn bến ấy ra vào,

Mua bán ào ào đổng đảo quá tay.

Bình Lợi cầu sắt mới xây,

Đưa qua kéo lại máy quây nhẹ nhàng.

Một đường xe lửa rõ ràng,

Một đường xe ngựa một đường người đi. (260)

Bề trường kể hết y nguy,

Hai trăm bảy chục sáu thì thước tây.

Bề hoành bảy thước hai tây,

So cầu Lục Tỉnh cầu nầy lịch hơn.

Chợ thời Gò Vấp, An Nhơn,

Bà Chiểu, Bà Quẹo, Cây Lơn, Thị Nghè.

Hốc Môn, Bà Điểm, Quán Tre,

Thủ Thiêm, Long Kiểng, lại kề Phú Xuân.

Phú Thọ phong thủy đương hưng,

Tiềm long điểm huyệt người từng chuộng yêu. (270)

Mả mồ chôn đó cũng nhiều,

Nhà giàu Chợ Lớn thảy đều có chôn.

Đất tốt yên ổn linh hồn,

Thiên hạ tiếng đồn kiết địa giàu sang.

Vườn trầu mười tám thôn trang,

Rõ ràng một cõi dọc ngang nghạnh cường.

Đôi phan nghịch lý loạn thường,

Nghe theo ông Hớn quên đường quốc gia.

Dậy giết ông Đốc phủ Ca,

Xóm làng náo động trẻ già hoảng kinh. (280)

Đặt vè ai khéo trớ trinh,

Đổ cho thù oán mà thành chuyện ra.

Thổ sản trầu thuốc với trà,

Người người siêng sắng nhà nhà làm ăn.

Lớp xe chuyên chở lăng xăng,

Lại thêm lớp gánh lớp bưng nhảy tràng.

Nọc phân trữ để sẵn sàng,

Tại nơi Chợ Vựa các làng tới mua.

Trầu thuốc bán đủ bốn mùa,

Nhơn dân nghệ nghiệp cứ đua làm giàu. (290)

Thánh đường nghiêm chỉnh trước sau,

Bề trên Lnh mục sửa trao mối giềng.

Trải xem Thập bát phù viên,

Một nơi Bà Điểm khuôn viên mĩ miều.

Ngựa hay mua sắm quá nhiều,

Mỗi kỳ đua ngựa thảy đều có ăn.

Hai mươi hạt xa gần,

Tiếng ngựa Bà Điểm ai bằng đặng đâu.

Thần từ phong thủy nhiệm mầu,

Có phường Trinh Nữ đã lâu tồi tàn. (300)

Thị Thơ nguyên bị cường gian,

Giữ mình trinh thục chết oan linh hồn.

Nhờ vua đại đức chí tôn,

Biển vàng sắc tứ vĩnh tồn thinh danh.

Lập phường đề chữ Nữ Trinh,

Lâu năm vôi ngói tan tành rã hư.

Biển vàng một tấm còn dư,

Đem vào thần miễu thờ chừ bên hiên.

Xuân kỳ thu báo thường niên,

Cỗ bàn phụ cúng liền liền chẳng sai. (310)

Đất Giồng cao ráo thanh bai,

Nhà dân cất ngói trong ngoài dọc ngang.

So cùng tứ cận các làng,

Mình Tân Thới Nhứt rõ ràng có hơn.

Tiếng đồn gà đá chưng trơn,

Thời gà Bà Điểm lắm cơn ăn tiền.

Đình chùa miễu võ linh thiêng,

Mỗi người mỗi có đạo riêng của mình.

Chánh chung cai trị công bình,

Phần ai nấy giữ thích tình hương thôn. (320)

Thuở trước chỗ Tây Thới đồn,

Là nơi Tân Thới Nhì thôn địa phần.

Có mả ông quan trào tân,

Người xưa tử trện vi thần tận trung.

Nay còn thạch mô ghi công,

Bên đường qua lại người đồng xem trông.

Gần đó có bưng Cầu Bông,

Ấy kinh Tầm Lạc ngã sông mới đào.

Hai bên ruộng khẩn biết bao,

Thả lờ đặt lọp rạch ao bộn bàn. (330)

Thông qua Bến Lức Thuận Giang,

Ghe đi buôn bán xoàn xoàn vọ ra.

Cựu trào có đồn Rạch Tra,

Hoành đối Sông Búng ngang qua thủ phần.

Cách tổng một nơi thủy tân,

Vĩnh An Tây xã xa gần đều hay.

Bến Vua kêu tiếng lạ thay,

Kề bên Bàu Chứa người rày thấy nghe.

Có mả ông La-Re-Nhe (Lareynière),

Thuận Kiều thẳng xuống giăng tre Chí Hòa. (340)

Ngày xưa tá vận quốc gia,

Đường tên mũi đạn mình đà quyên sanh.

Nay còn mộ chí đành rành,

Hùng danh tạc để sử xanh chẳng già.

Cách cuống bốn ngàn thước xa,

Có cây thạch trụ xây ra bên đường.

Bao nhiêu tử sĩ chiến trường,

Chữ tây chạm khắc tỏ tường sự công.

Ngó lên sở mía giữa đồng,

Một tòa cao vọi rộng thông tư bề. (350)

Ông Lê Phát Đạt cúng về,

Tốn hao của ấy ước kề ba muôn.

Làm nhà hưu trí giải buồn,

Các cha bổn quốc luôn luôn dưỡng già.

Thiệt là hùm chết để da,

Người chết để tiếng cũng đà vẹn xong.

Trương Gia Từ, tại Hanh Thông,

Tiên nhơn phần mộ ở trong chỉnh tề.

Qui mô sắp đặt tư bề,

Để gương hiếu thuận truyền về lớp sau. (360)

Chữ rằng hồ chánh thủ khâu,

Thủy nguyên mộc bổn một câu ghi lòng.

Chùa Tập Phước có sắc phong,

Lửa hương sánh với non sông còn hoài.

Giác Lâm chùa tổ sơ khai,

Tục kêu Cẩm Đệm lầu dài thạnh sung.

Thuở xưa Hoài Đức Trịnh công,

Viên quan hòa thượng cũng đồng bạn chơi.

Kẻ Vương người Phật theo đời,

Khi sau hội ngộ có lời tặng ngôn. (370)

Một bài cổ điệu ngũ ngôn,

Trịnh công thủ bút thuyền môn rõ ràng.

Bài ngũ ngôn cổ điệu của Trịnh công ở sau đây:

 

Một trăm chín chục một làng,

Miễu đình cách thức rỡ ràng đễ coi.

Lễ nghi trần thiết hẳn hòi,

Xuân kỳ thu báo rẻ ròi tôn nghiêm.

Bấy lâu chữ nghĩa mấy chìm,

Mà còn cung kỉnh khiêm khiêm đủ điều.

Trường tổng trong hạt cũng nhiều,

Dạy hai thứ chữ mơi chiều cần khuyên. (380)

Các nơi thêm có trường riêng,

Minh Tâm ấu học thầy siêng giảng hoài.

Mồng năm lễ tết đủ xài,

Lệ bày ôn cố tháng vài kỳ chơi.

Bữa rằm với bữa ba mươi,

Học trò chuối gạo cúng mời Âm nhơn.

Hư nên không mấy thua hơn,

Dùng dùng thẳng thẳng như đờn còn dây.

Hội riêng các miễu chùa nay,

An Nam các – chú khéo bà thói ra. (390)

Bày ra có hội thờ Bà.

Hoặc là thờ tổ hoặc là thờ ông.

Đờn bà dĩ chí đờn ông,

Đến ngày tế tự đồng lòng tư lương.

Y quan phẩm tiết tỏ tường,

Vãn lai thù tạt phô trương dập dìu.

Làm cho thần khỏi quạnh hiêu,

Bởi vì tập tục kính yên bày điều.

Bến Thành Chợ Lớn quá nhiều,

Chùa kia miễu nọ tốt đều qui mô. (400)

Pháp trào vĩnh viễn cơ đồ,

Quỉ thần đắc sở thạnh hồ tứ phương. (402)

Viết một bình luận

error: Content is protected !!