Chợ Lớn phong cảnh thi:
Dời đổi nguồi thương cảnh nước non,
Phiền hoa Chợ Lớn giáp Sài Gòn.
Dục – anh rực rỡ lầu đôi lớp,
Mai tự sum sẹ lũy một hòn.
Tham biện Xã Tây cò bót đủ,
Minh Hương chùa Phật miễu đình còn.
Kể sau cho hết bề thanh lịch,
Nho nhã phong lưu dấu chẳng mòn.
Chợ Lớn giáp ranh Sài Gòn,
Đường xe ngựa chạy thẳng bon nửa giờ.
Xe lửa lớn nhỏ hai bờ,
Một bờ đường giữa một bờ đường sông.
Dai cù bốn phía rộng thông,
Dọc ngang ngả ngách thảy đồng có tên.
Rạch kinh ghe đậu kẹo lền,
Phố phường lầu cất ở trên chỉnh tề.
Nhà máy bảy sở bộn bề,
Tiệm kia tiệm nọ ê hề bán buôn. (10)
Người thanh ở đó dư muôn,
Làm ăn nghề nghiệp như nguồn nước sung.
Kẻ nghèo lãnh việc làm công,
Người giàu giúp sức không lòng ghét nghi.
Trước sau tin cậy phải nghì,
Chẳng hề tham lạm chẳng khi ngại tình.
Hùn nhau thương mãi kinh dinh,
Thường niên tính sổ phân minh vốn lời.
Nước Nam nhơn tánh ở đời,
Ghét người thắng kỉ sợ người hóa nghi. (20)
Vậy nên các bản công ti,
Nhát gan nhỏ bụng ít khi lập thành.
Chẳng bằng người nước Đại Thanh,
Tề tâm hiệp lực dinh sanh xa vời.
Sống thời sanh lý ở đời,
Chết thời nghĩa địa sẵn nơi chốn về.
Mảnh xương thâu thữ đề huề,
Chẳng cho thất lạc bộn bề tấm thân.
Nặng nề xâu thuế cấp cầu,
Mà hay dìu dắt đỡ lần nhau đi. (30)
Tang bồng hồ thĩ nam nhi,
Phải nhơn phải nghĩa phải nghì tương thân.
Thói hay kỉnh phụng quỉ thần,
Ở đâu chùa miễu lo phần vĩnh vi.
Hà Chương hội quán ai bi,
Ôn Lăng thất phủ hạng nhì hạng ba.
Các chùa còn lắm xa hoa,
Thờ Ông Phước Đức thờ Bà Thai Sanh.
Thiên Hậu thánh mẫu rất linh,
Quan Công thánh đế lịch xinh tượng hình. (40)
Vái van cúng tế kỉnh thành,
Xin xăm cầu thuốc rập rình ngày đêm.
Thường khi sông biển thuận êm,
Bạc ngàn trả lễ chẳng hiềm tốn hao.
Cộ chưng không sót Bang nào,
Đua nhau khéo vụn lao xao trăm bề.
Các phương hỉ cúng lạc đề,
Có dư thì để của về công nho.
Lợi vào trước nhỏ sau to,
Cho vay cất phố xúm lo bồ chì. (50)
Tục hay thượng quỉ háo thi,
Lại hay tin tưởng những kì dị đoan.
Giấy tiền vàng bạc tro tàn,
Mua ra phí đến muôn ngàn như không.
Tập quen lâu đã tràn đồng,
Đã hay bắt chước mà lòng tự nhiên.
Đời nay chuyện thấy nhãn tiền,
Các nước đều có thói riêng rõ ràng.
Nghề buôn thứ nhứt không ngoan,
Hai là nghề thợ lại càng khéo lanh. (60)
Cuộc chơi Chợ Lớn châu thành,
Mỗi đêm hao tốn chứa dành tiền muôn.
Các trường diễn hí giải buồn,
Bạn Na bạn Quảng hát tuồng cũng vui.
Đầu hôm đông đảo tới lui,
Chỗ đèn năm ngọn ăn ngồi xuê xang.
Bán đồ ăn uống nhẩy tràng,
Bá bạn thập vật bỉ bàng lại qua.
Lầu xanh chỗ khách vô ra,
Treo lồng đèn hiệu trước nhà nhởn nhơ. (70)
Giọng ngâm giọng hát ngẩn ngơ,
Trêu hoa ghẹo nguyệt phỉnh phờ ấp yêu.
Tiền bạc không đặng bao nhiêu,
Trong năm bảy cắc mà liều bỏ thân.
Mối mang miễn tới cho cần,
Rước đưa đưa rước mấy lần cũng xong.
Những còn Nhựt Bổn Quảng Đông,
Đĩ mà sửa soạn chỗ phòng khiết tinh.
Nhộn nhàng ong bướm đem tin,
Lớp lui lớp tới kình kình ngựa xe. (80)
Mượn màu son phấn trẻ khỏe,
Dập dồi sóng sắc một bè gió trăng.
E khi bịnh hoạn không chừng,
Có Quan thầy thuốc mỗi tuần lục xi.
Mấy con lo lậu bất kì,
Di hoan trốn thuế lắm khi tiềm tàng.
T1u bà phỉnh dỗ khôn ngoan,
Trau tria nhan sắc coi càng thêm duyên.
Khách sang rước chở đầy thuyền,
Miễn cho đẹp ý bạc tiền sá chi. (90)
Lâm trang nho nhã nam nhi,
Ngỡ là vưu vật khả di nhơn tình.
Ai dè nó quá phong tình,
Đa dâm uế trược cả mình không kiêng.
Rủi ro độc khí nhiễm truyền,
Dương mai bịnh phát khốn điên có ngày.
Bởi vì không có quan thầy,
Không ai xem xét nên rày sanh đau.
Tuần do ngăn đón trước sau,
Thằng b8at1 con gái tróc câu dẫn về. (100)
Chủ hoa chực lãnh tư bề,
Đứa mô có bịnh đem về nhà thương.
Nước nhà phép nhặt chiêu chương,
Chẳng kiêng chẳng sợ cứ vương vấn hoài.
Độc truyền cả gái cả trai,
Biết đâu mà chuộc thuốc bài trừ căn.
Các quận phong tục làm ăn,
Có đặt Hộ trưởng coi dân châu thành.
Xã Tây lầu cất rộng thinh,
Của trong thành phố phân minh mối giềng. (110)
Sài Gòn so lại bực tiền,
Sau thì Chợ Lớn của tiền biết nhiêu.
Coi ra thâu xuất rất đều,
Càng thêm thanh lịch càng nhiều phiền ba.
Dục anh mới lập một tòa,
Lầu đài thứ lớp thật là lịch xinh.
Khuôn viên ở dựa châu thành,
Hai bên rộng rãi đành rành nghiêm trang.
Ổn bà tánh hạnh dịu dàng,
Học chuyên phép mụ kĩ càng không sai. (120)
Chuyện làm phước đức lầu dài,
Dựng nên cơ chỉ hơn vài ba năm.
Thương người thai sản lỗi lầm,
Bày ra có chỗ nuôi cầm trẻ thơ.
Nguyễn Thân vừa lúc ơ hờ,
Gặp người làm phải mặt ngơ bao đành.
Cúng bà trăm bạc lấy tình,
Cũng là nghĩa cử mĩ danh lưu truyền.
Đu-Ê (Drounhet) người có đức hiền,
Vợ chồng gầy dậng mối giềng mở mang. (130)
Nam kỳ phụ nữ muôn ngàn,
Đội ơn chẳng khác rõ ràng thân sanh.
Các nơi cò bót xanh quanh,
Thủy hỏa đạo tặc tuần hành đa đoan.
Tham biện phần coi tổng làng,
Lầu cao dinh rộng tứ bàn khuôn viên.
Học trường dạy dỗ công siêng,
Trường quan trường tổng sanh viên dập dìu.
Nhà thờ nhà phước mĩ miều,
Cả trong toàn hạt cũng nhiều chỗ danh. (140)
Hiên, Kì sự nghiệp thân vinh,
Ông Lương Minh Ký lạc tình y gia.
Ngoại khoa đắc pháp Hoa Đà,
Huề nang lại việt phương đa diệu huyền.
Nam kỳ sĩ thứ quan viên,
Mong ân tế cứu lịch niên danh trì.
Hiện tồn chơn tượng dung nghi,
Y quan chỉnh túc tu mi lão thành.
Tâm điền lưu giữ hậu canh,
Lang tôn quế tử ninh hinh mãn đình. (150)
Biển liên đề tặng phân minh,
Chiêu chương sự tích gia thinh huy hoàng.
Châu thành đủ các cửa hàng,
Hàng Tây hàng Bắc với hàng Xiêm Mên.
Hàng Chà hàng Chệc hai bên,
Mấy từng lầu các dước trên ở đầy.
Hướng Dương tiệm lập cũng hay,
Đỡ cho thiên hạ như vay nhẹ lời.
Thiếu chi tộc hậu các nơi,
Sanh nhai đắc ý ăn chơi không nhàm. (160)
Thiếu chi thầy thợ việc làm,
Các ông Địa lý luận đàm thấp cao.
Y sanh kể hết xiết bao,
Duy ông Chức Tượng tuổi cao phải thầy.
Lòng nhơn giúp chúng lâu nay,
Nghĩa phương giáo tử vui thay thọ tràng.
Thầy Các-chú, cũng bộn bàn,
Thầy bói thầy tướng dọc ngang hiệu đề.
Làm ăn sở cậy có nghề,
Ít năm đem bạc trở về cố thôn. (170)
Lại thêm các sãi thuyền môn,
Ở bên Hương Cảng nghe đồn nước nam.
Nhơn khi chùa miễu việc làm,
Thiêu hương kiến tiệu thỉnh đam sang thường.
Thầy chùa ở tại địa phương,
Tụng kinh chịu đám phố phường các nơi.
Hoặc là tuần tự cúng trời,
Cúng sao cúng hạn theo đời cũng xong.
Thấy pháp khiển tướng sai đồng,
Ráng hơi hò hét Bà đồng lên ngang. (180)
Chầu mời thì rước bóng chàng,
Thầy dò thấy quẻ hay bàn hơn thua.
Thợ bạc đắc đủ bốn mùa,
Thợ may chỉ đắc một mùa đông thiên.
Thợ đá làm cũng khá tiền,
Thợ thêu thợ cẩn bạc trăm có thường.
Lại thêm các thợ nhiễm phường,
Các lò thợ đúc tỏ tường khuôn viên.
Âm công đồ sắm nhiều tiền,
Sang hèn hai hạng theo miền dinh quê. (190)
Đồ ông Hộ Bảo phủ phê,
Người nay đã mất mà nghề còn quen.
Mười giờ tối, đi có đèn,
Phòng quân gian tế lộn xen u hòa.
Kể ra các chỗ danh gia,
Thuở đời quan cựu có nhà Trịnh công.
Ngày xưa tá vận Gia Long,
Tên là Hoài Đức hiếu trug trọn nghì.
Lưu truyền tập Cấn Trai thi,
Gia Định Thông Chí đều thì ích nhơn. (200)
Phải là phẩm trọng Đẩu sơn,
Dưới trăm năm hãy còn cơn cảm hoài.
Ông Hộ Vấp danh chẳng phai,
Giàu mà nhơn đức ít ai sánh bằng.
Nhớ khi Ngũ quản đạo dân,
Bị cơn biến loạn cơ bần lưu ly.
Cả đoàn trốn đến Nam kỳ,
Đói no sống thác còn gì mà mong.
Ông Hộ xót xa trong lòng,
Xin quan cho phép chẩn cùng đạo dân. (210)
Bạc ngàn một thuở thi ân,
Mà nay tiếng tốt xa gần ngợi danh.
Roi còn con cháu hiển vinh,
Cho hay tích đức minh minh đến rày.
Ông Đỗ Hữu Phương ngày nay,
Hưởng nhờ phước thọ sùm vầy thất gia.
Con trai lớn, vợ Lang-sa,
Tên là cậu Chẩn nết na hiền lành.
Mình không ỷ thế quyền hành,
Lại thêm có đức song sanh trai hiền. (220)
Hầu cận Soái gia toàn quyền,
Thứ nam thi đậu nhãn tiền hiển vang.
Con gái là cô Ba Nhàn,
Lấy chồng người Nghệ tên Hoàng Trọng Phu.
Cũng dòng khoa mục văn nhu,
Nay làm Tổng đốc hoạn du Bắc kỳ.
Nhà sang vật quới thiếu chi,
Cập hàng dưỡng lão tứ vi đá liền.
Tánh hay đãi sĩ chiêu hiền,
Một năm rước khách tốn tiền ngàn muôn. (230)
Ngựa xe trước cửa luôn luôn,
Phải nơi phần phước vạc chuông một nhà.
Vẹn tròn danh giá tiếng xa,
Bài thơ hưu trí trẻ già đọc vang.
Quả nhiên phước lộc thọ toàn,
Tiên nhơn thế trạch ngày càng lưu phương.
Tân Hòa sung thạnh thôn hương,
Nhà thờ Chợ Quán đống lương chỉnh tề.
Tốt tươi bông trái tư bề,
Xứ nhiều lò đúc thật nghề tinh chuyên. (240)
Một tòa Nhà Phước mối giềng,
Ruộng vườn đất cát bạc tiền dinh dư.
Phải là một chỗ thiện từ,
Phải là vĩnh viễn căn cư đời đời.
Đồng nam đồng nữ thảnh thơi,
Sớm khuya ăn học cập thời gia công.
Các bà nuôi dạy hết lòng,
Tu hành phước đứa ơn đồng thân sanh.
Nhà thương một sở thinh thinh,
Giúp người bịnh hoạn dưỡng tình nhàn thân. (250)
Đội nhờ phép nước thi ân,
Làm ra có chỗ cứu dân tai nàn.
Thuở kia ông Đốc học quan,
Tên Trương Vĩnh Ký tánh càng hiền lương.
Tiếng tăm chữ nghĩa ngoại phương,
Chí công đi học dặm trường non sông.
Các quan thọ nghiệp rất đông,
Truyện thơ các món dịch dùng quấc âm.
Dựng cờ giữa chốn Từ lâm,
Tiên phong đạo cốt thâm trầm ung dung. (260)
Ơn vua Đồng Khánh tặng phong,
Thi chương ngự tứ Nam Trung Ẩn Hiền.
Nay còn con nối mối giềng,
Một nên lư mộ cận biên Thánh đường.
Người đều hoài cảm tư lưng,
Dấu roi sách vở tỏ tường mấy pho.
Thương ông Tổng Nhiệm Cầu Kho,
Mấy năm sáng tạo cơ đồ dọc ngang.
Công ti lập tiệm sửa sang,
Đặt người coi sóc lang chang bộn bề. (270)
Sắm tàu hai chiếc chỉnh tề,
Dạo chơi các sở khi về khi đi.
Ba5ni thành há kể làm chi,
Song le lạm dụng bởi vì phi nhơn.
Người Nam thương cuộc ai hơn,
Ngàn năm tiếng để còn cơn chạnh lòng.
Có người giàu lớn lạ lùng,
Ông Lê Phát Đạt Nam Trung ai tày.
Thật là cự phú đời nay,
Con trai đều thảy dân Tây sang giàu. (280)
Khen cho phú quí mưu sâu,
Dạy con một cách nhiệm mầu đều nên.
Chia ra đâu đó vũng bền,
Thủ thành sự nghiệp dưới trên thuận hòa.
Sống thì cần kiệm khởi gia,
Đến khi tương tử vậy mà tâm linh.
Cùng vào Hội thánh đinh ninh,
Ba mươi muôn bạc để danh lâu dài.
Đặt tên tiếng nói không sai,
Nhà thờ Chợ Đuỗi truyền lai mối giềng. (290)
Tượng Chúa ngó ra phía tiền,
Trung gian là chỗ táng yên đai-thành.
Nay đả công cán sự thanh,
Lễ mừng khánh hạ tiếng lành thơm xa.
Ông Huỳnh Tịnh Trai tuổi già,
Công lao giúp nước cũng là bền dai.
Ở bên Cầu Muối lâu dài,
Tại phòng Phiên dịch tỏ tài mọi nơi.
Văn thơ các cuốn để đời,
Quấc âm Tự vị rạng ngời thân danh. (300)
Phải trang niên sĩ lão thành,
Chức làm Đốc phủ lạc tình thung dung.
Hội y mới lập bên sông,
Khá khen gầy dựng nh5c lòng lắm thay.
Qui mô sự nghiệp mới bày,
Nhờ trong Chợ Lớn mấy thầy giúp lo.
Bạc vàng cúng chẳng so đo,
Tưởng làm vĩnh viễn cơ đồ bền lâu.
Ai dè việc chẳng khéo âu,
Buổi đầu hiệp ý mà sau trái lòng. (310)
Người gọi rắn, kẻ nói rồng,
Không bằng thợ bạc vung trồng lê Châu.
Lệ Châu thủ nghĩa cao sâu,
Lệ Kiêm chói rạng Hải Châu chiếu ngời.
Tề tâm hiệp lực ở đời,
Khiêm cung lễ nghĩa tánh trời tự nhiên.
Tục hay bày đặt chùa chiền,
Thiện nam tín nữ của riêng lập thành.
Mùa xuân tế lễ nghiêm minh,
Dưng bông hát bội rập rình ngày đêm. (320)
Vãn lai thù tạc thuận êm,
Kẻ công người của tình thêm phỉ tình.
Hoặc ai đau chết thình lình,
Dưỡng sanh tống táng phận đành chung nhau.
Dấu roi thói tốt về sau,
Truyền cho con cháu bền lâu rạng ngời.
Chợ Lớn là chỗ ăn chơi,
Cầm kì thi họa trải đời đẹp xinh.
Cỗ bàn bánh trái có danh,
Tục hãy để dành tiếng cổ Minh Hương. (330)
Chùa Minh Hương, cách khác thường,
Coi ra thủy thổ quấc vương có lòng.
Long phi hai chữ chánh trung,
Lưỡng bang tả hữu chữ dùng phụng lân.
Long là nghĩa trọng thánh quân,
Phụng lân nghĩa kính quần thần đống lương.
Đổi dời mấy cuộc tan thương,
Còn chùa để dấu khách thương cội nguồn.
Nhớ xưa sự tích cũng buồn,
Gẫm nay thế biến chuyển buồn hóa vui. (340)
Chùa mai cảnh trước ngậm nguồi,
Phong lưu sĩ nữ lắm hồi xuống lên.
Nay làm đồn lũy một nền,
Lính tây canh gác riêng bên lâu đài.
Thuở đà triệt phá chùa mai,
Nhơn sao tên cũ còn hoài bởi đâu.
Cợ chồng Hộ Yến nguyện cầu,
Cất ra gần đó tốn âu bạc ngàn,
Dấu xưa không nỡ để tàn,
Của nhà tự xuất rõ ràng lạc huyên. (350)
Đã đều về chốn huỳnh tuyền,
Phu thê linh sảng lên miền thiện giêng.
Chùa thí nước, ông Tôn Hiền,
Tu hành công quả nhọc siêng nhiều bề.
Thiệt thà giữ phận dốt quê,
Giải thân khổ hạnh dựa bề Không môn.
Nay đà siêu thác thần hồn,
Dấu coi chất phát người còn cám trông.
Trụ trì ông Nguyễn Từ Phong,
Ở chùa Giác Hải dưỡng dung bấy chầy. (360)
Gốc cô Hai Liễu dựng gầy,
Thêm nhờ Bổn đạo ngày nay lập thành.
Từ Phong có chí tu hành,
Xảo tri nho học tánh lành không đua.
Cô hai Liễu rước về chùa,
Bấy lâu hương hỏa bốn mùa thạnh sung.
Chợ Bà Hom ở giữa đồng,
Thành hoàng miễu võ đất giồng anh linh.
Chùa Long Thạnh, cảnh lịch xinh,
Ông Hòa thượng Hỉ học hành lắm công. (370)
Văn chương kinh kệ khá thông,
Dạy chư môn đệ học trong đạo thuyền.
Từ bi chữ dạ phật tiền,
Thị phi thế sự không phiền đến tai.
Thầy chùa sáu tỉnh một ngài,
Chẳng lòng trần lụy chẳng hoài lợi danh.
Phải trang tu niệm lão thành,
Tương rau dưỡng chí đã đành tự như.
Phong thổ Chợ Đệm ngã tư,
Cối xay với đệm dinh dư trữ nhiều. (380)
Dân nhờ ruộng đất đủ tiêu,
Làm ăn chắc chắn người đều thảnh thơi.
Bình Điền Bình Chánh các nơi,
Hai bên đồng ruộng lộc trời phì nhiêu.
Bình Tây Rạch Cát ghe nhiều,
Gò Đen Rạch Kiến Rạch Đào chợ sung.
Hãy cón noi dấu cổ phong,
Ăn chơi đờn địch thung dung lắm nhà.
Thưở cựu trào, rạch Đôi Ma,
Gần bên Rạch Kiến cũng là sự linh. (390)
Nguyên xưa Phạm thị nữ trinh,
Gả cho Nguyễn Tánh học sanh vợ chồng.
Hỏi rồi mà cưới chưa xong,
Hai người rủi chết cũng trong một hồi.
Đôi bên cha mẹ ngậm nguồi,
Nghĩ duyên tức tối sụt sùi thở than.
Từ đồng huyệt, sanh đồng sàng,
Cho chôn chung lại một phan mộ phần.
Hồn linh hiển hiện nhiều lần,
Người ta ngó thấy kêu rằng đôi ma. (400)
Cách sông một khúc ngang qua,
Có làng Đái Nhựt thờ mà Mai Hương.
Nắc-Thăm nguyên lúc nhiễu nhương,
Rước binh Xiêm lại tranh cường giết anh.
Nắc-Yêm bôn tẩu Định thành,
Lịnh vua sai tướng hưng binh cứu nàn.
Hương làm Tào vận tiểu quan,
Quản coi một chiếc lương thoàn chở đi.
Quân Mên triệt ngả Bần Quì,
Mai công liệu thế hiểm huy nhãn tiền. (410)
Truyền quân lập tức đục thuyền,
Mình cùng lương phạm xuống miền tiêu tương.
Bỏ thân tách cõi trần dương,
Hồn chôn bụng cá phách nương hà phần.
Truy phong làm Tử Nghĩa thần,
Ban tiền lập miễu kế gần Thủy biên.
Nay còn tế tự thường niên,
Nội làng hương chức nhọc siêng phải nghì.
Bên miễu có cây bần quì,
Miễu ông Bần Quì, tục ngữ còn ghi. (420)
Sòng-tra lên xuống hằng khi,
Ghe buôn tới đó đều thì vái van.
Thương người trung liệt tử nàn,
Muôn năm huyết thực rỡ ràng tạc biên.
Đường sông có sấu cũng nhiều,
Bởi vì thanh vắng quạnh hiêu tư bề.
Ranh đất Gò Công giáp kề,
Theo bờ đồng ruộng ngó mê cả ngàn.
Lắm quân trộm cướp tiềm tàng,
Các nơi chủ chứa trong làng thiếu chi. (430)
Có người tuổi tác tu mi,
Chức làm Linh mục vậy thì tên Đoan.
Lão thành tánh nết kỹ cang,
Xảo thông nho đạo tập nhàn y phương.
Ham vui từ điệu văn chương,
Thi thơ mảng tháp phô trương luận bàn.
Đã về hưu trí dưỡng nhà,
Lương Hòa An Hạ, tổng làng đều thương.
Nay đà lên chốn thiên đường,
Dấu roi mô phạm chúng thường ngợi tôn. (440)
Trường riêng các chỗ xã thôn,
Tứ thơ, Ấu học, lưu tồn văn phong.
Trẻ con đi học cũng đông,
Tập làm đối đoạn gia công trao dồi.
Chợ Quán có trường học Đui,
Bày ra cách dạy chữ dùi cũng hay.
Rờ vào biết nét vậy ngay,
Tiếng tăm chữ nghĩa trong tay lập thành.
Bởi nhờ ơn nước rộng tình,
Thương công Thấy Chí học hành linh tinh. (450)
Rủi ro lưỡng mục thất minh,
Cấp bằng cho chức dạy mình trường Đui.
Hậu ban bổng lộc dưỡng nuôi,
Vợ con no ấm đặng vui phận nhàn.
Tốt thay bảy chục hai làng,
Quan hôn tang tế tục càng thuần lương.
Nơi nơi nghiêm chỉnh Thánh đường,
Tu bồi Phật tự chấn trương Thần đình.
Sĩ nông công cỗ lạc tình,
Vãn lai thủ tạc hòa bình tiếp giao. (460)
Châu thành cây trái nhặt dày,
Rẫy trồng phẩm vật đủ rày thứ rau.
Gần tết bất kì ở đâu,
Mẫu đơn, Phật thủ, gánh hầu nhà sang.
Mồng gà, bạch cúc, sửa đang,
Quít, cam, trong chậu sẵn sàng trái tươi.
Ở bên Hương Cảng các nơi,
Chở qua Tây cống cho người thưởng xuân.
Hoặc dân bổn hạt chuyên cần,
Liệu ngày trồng sửa nhằm chừng không sai. (470)
Thiều quang chín chục thẳm dài,
Chơi năm ba bữa nào ai hẹp dùng.
Phong lưu nho nhã khiêm cung,
Ya quan tề chỉnh đờn ông lịch đời.
Đờn bà vòng chuỗi chói ngời,
Áo quần đẹp đẽ nói cười thanh bai.
Phấn hương xông ướp dồi mài,
Lên xe xuống ngựa sắc tài xuê xang.
Lắm khi lãng phí chẳng màng,
Gặp cơn bài bạc trăm ngàn sá bao. (480)
Đánh đề với đánh bài cào,
Chẳn kiêng quấc cấm ra vào nghinh ngang.
Du côn lắm kẻ bạo tàn,
Xanh quanh Chợ Lớn nhẩy tràng đảng phe.
Trong mình thích tự không ghê,
Củ chì, tay sắt, lưỡi lê, đòm rình.
Thừa cơ ngộ sự bất bình,
Hừng hừng nổi giận dánh inh giữa trời.
Rủi mau chết sống như chơi,
Coi nơi Khám Lớn ví nơi cửa nhà. (490)
Từ khi thâu thủ nước ta,
Triều đình Đại Pháp ơn ra bảo toàn.
Ngày càng đổi cuộc hèn sang,
Bạc vàng tiêu phí cả ngàn cả trăm.
Mới đây hơn bốn mươi năm,
Các nhà còn lại bao lăm cang thường.
Thật là thiên đạo chủ trương,
Khiến người tan hiệp một trường bi hoan.
Tục hay tin sự dị đoan,
Sài Gòn Chợ Lớn rộn ràng thiếu chi. (500)
Vài năm thì có chuyện kỳ,
Gốc nơi các chú thị phi bày điều.
An Nam hay bắt chước theo,
Mấy người tu núi đặt điều lăng xăng.
Ghe phen phép nước khuyên răn,
Tha rồi lại phạm năng năng ở tù.
Thương thay Thánh đạo trăng vu,
Ai minh đường chánh ai xu lẽ tà.
Tánh người mềm dịu thiệt thà,
Tháy đâu tin đó cũng là thói chung. (510)
Lại ưa tiếm đỏ điều hồng,
Lắm khi sắc đỏ đem dùng phô trương.
Binh-dinh hỏa tại Nam phương,
Hoàng triều trượng xích tục thường chuộng yêu.
Hãy còn câu hát tục diêu,
Nói luôn cho biết mĩ miều giọng ca.
Ai mà thấu đặng lòng ta,
Ta cho một vót Hồ La nhuộm điều.
Hai mươi hai hạt thảy đều,
Trừ ra tang sự đỏ nhiều cách sang. (520)