Đoạn nầy tới thứ Nguyệt Nga;
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Ðêm khuya chong ngọn đèn ngồi;
Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi.
Quan âm thuở trước nói gì;
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
Ðã đành đá nát vàng phai;
Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.(1810)
Phải chi hỏi đặng Nam Tào;
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau.
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu;
Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: Ai ở trong nhà;
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng.
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi gùng;
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão bà lật đật hỏi chào;
Ở đâu mà tới rừng cao một mình?(1820)
Vân Tiên mới nói sự tình;
Tôi là quốc (quấc) trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô Qua.
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây.
Lão bà nghe nói sợ thay;
Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già.
Vân Tiên ngồi nhắm Nguyệt Nga;
Lại xem bức tượng lòng đà sanh nghi.
Hỏi rằng: Bức ấy tượng chi;
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình. (1830)
Ðầu đuôi chưa rõ sự tình;
Lão bà khá nói tánh danh cho tường.
Lão bà chẳng dám lời gian;
Tượng này vốn thật chồng nàng ngồi đây.
Tiên rằng: Nàng xách lại đây;
Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe.
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè;
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
Ngồi che tay (tai) áo hổ (hỗ) ngươi;
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.(1840)
Rằng: Sao nàng chẳng nói đi?
Hay lời ta hỏi động chi chăng là?
Nguyệt Nga khép nép thưa qua;
Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đà về chốn cửu tuyền;
Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng.
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn;
Chồng là tên ấy vợ là tên chi?
Nàng bèn tỏ thiệt một khi;
Vân Tiên vội vã (vả) xuống quì vòng tay.(1850)
Thưa rằng: Nay gặp nàng đây;
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Để lời thệ hải minh sơn;
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi;
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ.
Nguyệt Nga bảng lảng bơ vơ;
Nửa (nữa) tin rằng nửa (nũa) ngờ rằng ai.
Thưa rằng: Đã thiệt tên ngài;
Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua.(1860)
Vân Tiên dẫn (dẩn) tích xưa ra;
Nguyệt Nga khi ấy khóc hoà như mưa.
Ân tình càng kể càng ưa;
Mảng (mãng) còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xẩy nghe quân ó vang dầy;
Bốn bề rừng bụi khắp bày can (cang) qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra;
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hán Minh.
Hán Minh khi ấy dừng binh;
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.(1870)
Minh rằng: Tẩu tẩu ở đâu;
Cho em coi mặt chị dâu thể nào;
Vân Tiên đem Hán Minh vào;
Nguyệt Nga đứng vậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: Tưởng chị ở Phiên;
Quyết đem binh mã tới miền Ô Qua.
May đâu sum hiệp một nhà;
Giặc đà an giặc khải ca hồi trào.
Tiên rằng: Nàng tính thể nào;
Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên. (1880)
Ngõ nhờ lượng cả bề trên;
Lịnh tha tội trước mới nên về nhà.
Trạng nguyên từ giã lão bà;
Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày.
Ta về đem bức tượng nầy;
Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà.
Tiên Minh trở ngựa đều ra;
Ðem binh trở lại trào ca đề huề.
Sở vương nghe Trạng nguyên về:
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.(1890)
Sở vương bước xuống kim giai;
Tay bưng chén rượu thưởng tài Trạng nguyên.
Phán rằng: Trẫm (Trẩm) sợ nước Phiên;
Có ngươi Cốt Ðột phép tiên lạ lùng.
Nay đà trừ Cốt Ðột xong,
Thực trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
Phải chi trước có trạng ra;
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ?
Lịnh truyền mở yến triều đô;
Rày mừng trừ giặc Ô Qua đặng rồi. (1900)
Trạng nguyên quì tấu một hồi;
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ (ngở) ngàng;
Phán rằng: Trẫm (trẩm) tưởng rằng nàng ở Phiên.
Chẳng ngờ nàng với Trạng nguyên;
Cùng nhau trước có nhơn duyên thuở đầu.
Thái sư trước bệ quì tâu;
Ô Qua dấy động qua mâu cũng vì.
Trá hôn oán ấy nên gây;
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân.(1910)
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng;
Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa.
Thái sư trước chẳng lo lừa;
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng?
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng;
Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
Ngay gian sao cũng có trời;
Việc nầy vì trẫm (trẩm) nghe lời nên oan.(1920)
Trạng nguyên tâu trước trào đàng:
Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
Trịnh Hâm là đứa gian tà;
Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen.
Sở vương phán trước bệ tiền;
Những ngờ tưởng ngõ tôi hiền mà thôi.
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi;
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng.
Hán xưa có gã Đổng công;
Nuôi thằng Lữ (lử) bố cướp dòng nhà Lưu.(1930)
Đời xưa tôi nịnh biết bao;
Thái Sư nay cũng có khác nào đời xưa.
Thấy người trung chánh chẳng ưa;
Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu;
Ay là mới hết người sau gian tà.
Sở vương phán trước trào ca;
Thái sư cách chức về nhà làm dân.
Trịnh Hâm là đứa bạo thần;
Giao cho quốc (quấc) trạng xử phân pháp hình.(1940)
Nguyệt Nga là gái tiết trinh;
Sắc phong quận chúa hiển vinh rõ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan;
Trẫm (trẩm) cho phụ chức làm quan Đông Thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã đành;
Kiệu trương tán phụng cho đành vinh hoa.
Bãi chầu chư tướng trở ra;
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương họ Hán họ Bùi;
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.(1950)
Trạng nguyên mới hỏi một lời;
Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào;
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh.
Minh rằng: Ai mượn kêu anh?
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
Dẫn ra chém quách cho rồi;
Ðể chi gai mắt đứng ngồi căm gan?
Trực rằng: Minh nóng nói ngang;
Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi?(1960)
Xưa nay mấy đứa vô nghì ;
Dầu cho có sống làm gì nên thân?
Hâm rằng: Nhờ lượng cố nhân;
Vốn em mới dại một lần xin dung.
Trạng rằng: Hễ đứng anh hùng;
Nào ai có giết đứa cùng làm chi?
Thôi thôi ta cũng rộng suy;
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
Hâm mầng khỏi chết rất vui;
Vội vàng cúi lạy (lại) chơn lui ra về.(1970)
Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê;
Ngồi chai bộ mặt như về thịt trâu.
Hán Minh Tử Trực vào tâu;
Xin đưa quốc (quấc) trạng kịp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi;
Trong lòng hổ thẹn vì mình máu dê.
Trạng ngươn xe giá chỉnh tề;
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà;
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành.(1980)
Võng điều gươm bạc lọng xanh;
Trạng nguyên Tử Trực Hán Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn giang;
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay,
Trịnh Hâm bịcá nuốt rày;
Thiện trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng;
Làm người ain nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần;
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.(1990)
Của đi khuyên giáo mấy năm;
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thế đặng người ta;
Còn đương thơ thần vào ra Đại Đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về;
Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng:
Tiểu đồng hồn bậu có thiêng;
Thảo tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay.
Ðọc văn nhớ tới châu mày;
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.(2000)
Người ngay Trời Phật động lòng;
Phút đâu ngó thấy Tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi;
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.
Tiểu đồng nhắm ngử nhìn nghiêng;
Ông nầy sao giống Vân Tiên cũng kì!
Ông nào mất xuống âm ti;
Ông nào còn sống nay thì làm quan!
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
Phải ngươi đồng tử mắc nàn (mắt nàng) chốn ni?(2010)
Mấy năm tớ mới gặp thầy;
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn;
Ai dè còn thấy bổn quan;
Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.
Trạng nguyên khi ấy mừng vui;
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại Đề.
Đoạn thôi xe giá ra về;
Tuần du phút đã gần kề Hàn giang.
Võ công từ xuống suối vàng;
Thể Loan cùng mụ Quỳnh (Quình) Trang đeo sầu.(2020)
Mẹ con những mảng (mãng) lo âu;
Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh:
Cùng ta xưa có ân tình;
Phải ra đón rước lộ trình họa may.
Loan rằng: Mình ở chẳng hay;
E người còn nhớ những ngày trong hang.
Trang rằng: Con có hồng nhan;
Cho chàng thấy mặt thì chàng cũng ưa.
Ví dầu còn nhớ tích xưa;
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công.(2030)
Cùng nhau bàn luận đã xong;
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.
Nay đà tới thứ Trạng nguyên;
Hàn giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng châu báu áo quần;
Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều.
Ngư tiều nay đặng danh biêu;
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng nguyên chưa kịp trở về;
Thấy Quỳnh (Quình) Trang đã đứng kề trong quân.(2040)
Trang rằng: Tưởng chữ hôn nhân.
Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên;
Võ công đã xuống Huỳnh tuyền;
Xin thương lấy chút thuyền (thiền) quyên phận nầy.
Trạng rằng: Bưng bát nước đầy;
Ðổ (đỗ) ngay xuống đất hốt rày sao xong?
Oan gia nợ ấy trả xong:
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi?
Hán Minh Tử Trực đứng coi
Cười rằng: Hoa khéo làm mồi trêu ong.(2050)
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng;
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
Ca ca sao chẳng chịu đi?
Về cho tẩu tẩu để khi xách giày.
Mẹ con đứng thẹn thuồng thay;
Vội vàng cúi lại chơn rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà;
Thấy hai ông cọp nhẩy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng;
Ðem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng.(2060)
Bốn bề lấp đá bịt bùng;
Mẹ con than khóc không trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi;
Tiếc công son điểm phấn giồi bấy lâu!
Làm người cho biết ngãi sâu;
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Ðừng đừng theo thói mẹ con;
Thác đà mất kiếp xấu còn bia danh.
Trạng nguyên về tới Ðông thành;
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.(2070)
Bày ra sáu lễ sẵn sàng;
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia;
Rày mừng hai họ một nhà thành thân;
Trăm năm biết mấy tinh thần?
Sanh con sau nối gót lân đời đời.(2076)
……………………. Chung ………………………..