Trẻ con nhiều đứa ngược tai,
Đừng binh chúng nó mà sai nghi người;
Sanh ra nhiều thốt nhiều lời,
Con ai mà lại dám chơi cùng mình; (165)
Người chánh thất kẻ tiểu tinh,
Vợ trên hầu dưới đã rành trước sau;
Lỡ ra hòa thuận cùng nhau,
(Câu 690) Em nưng chị ngã mầy tao thêm xằng;
Sứa đâu lại nhảy qua đàng,
Đá đâu trên cỏ lung lăng một mình; (166)
Gái người bạn với con mình,
Vốn duyên trời buộc để dành cho ta;
Xui người xa mẹ ngại cha,
Chịu mình tang chế những ba năm trời;
Gái mình rồi cũng dâu người,
Mẹ chồng khổ khắc lụy rơi hai hàng;
Cớ chi mình chẳng nhập giang?
(Câu 700) Lại còn bươi móc lắm đàng khúc eo?
Chi hơn yêu đội nưng niu,
Bày khôn vẽ dại lấy điều ngọt ngon;
Thương ra trái ấu cũng tròn,
Ghét ra những trái bòn bòn méo ngay;
Còn như phận gái gái hay,
Dầu em dầu chị mấy người ở chung;
Quen nhà mạ, lạ nhà chồng,
Dầu ai cũng vậy chớ lòng đôi co;
Một trăm ông chú không lo,
(Câu 710) Mà lo một chút mụ o nhọn cằm;
Khua môi xang lưỡi om sòm,
Mình nom việc đó, ai dòm việc đây? (167)
May mà chống có con bầy,
Như ruộng nhiều lúa, như cây nhiều nhành;
Mai sau hương hỏa cơm canh,
Phần mồ đống mả có mình ở trong;
Còn khi bệnh cả nạn hung,
Con mình cậy có con chồng anh em;
Lẽ đâu chặt đũa trừ kem?
(Câu 720) Một bề thiên ái, mà đem bụng xàng; (168)
Vắng chồng mười tháng đầy trăng,
Gái trai trời định ai rằng thiệt hơn?
Cù lao cúc dục là ơn,
Biết đâu phước tội mà hờn mà vui;
Đạo nhà khi tới khi lui,
Trai đâu bất tiếu sụt sùi mẹ cha;
Nào hay gái trở khem ra,
Môn mi dành để phước nhà từ đâu;
Huống chi nối nghiệp cơ cầu,
(Câu 730) Máu mô thịt nấy chớ hầu đổi thay? (170)
Ví bằng rút giắt trao tay,
Khác dòng khác họ có ngày suy vong;
Việc nhà dễ một ai xong,
Mỗi người mỗi việc có trong có ngoài;
Kẻ trên khi gọi khi sai,
Sân chung mặt đó gặp ai nấy làm;
Dâng công mình chửa dạ cam,
Việc mình chẳng hết côm-lam việc người;
Bằng khi ai có vẽ vời,
(Câu 740) Một mình vai vác chớ bươi móc gì;
Phụ công vốn phận nữ nhi,
Làm rồi cũng chớ kể chi sâu dày; (171)
Mình đã tốt phước làm thầy,
Phận người tôi tớ đỡ tay chơn mình;
Việc chi dạy bảo cho rành,
Sớm khuya nhắc nhủ tập tành nết na;
Chẳng ki tớ trẻ tớ già,
Cơm no áo ấm muối cà vải gai;
Đứa nào bệnh hoạn một mai,
(Câu 750) Sống nuôi thác cất chớ hoài bỏ đi;
Dầu khi nhà nó việc gì,
Tiền cho gạo cấp kể chi từng đồng;
Đứa nên định vợ gả chồng,
Đứa hư mình cũng một lòng trước sau;
Không nuôi ta đuổi đi mau,
Để chi đánh chưởi ra màu lôi thôi;
Đạo trời quả báo chi rồi,
E mai con cháu lại tôi tớ người; (172)
Thai sanh ai chẳng nhờ trời,
(Câu 760) Nghe chừng kết quả phải rời chồng ra; (173)
Con ta ta giữ cho ta,
Cữ kiêng chẳng luận thai già thai non;
Một là dục hỏa (174) phạm con,
Tử cung (175) rối loạn chẳng còn gì thai;
Hai là nhiệt độc vãng lai,
Sanh con yểu trát (176) ghẻ sài quanh năm;
Ba là trước khí (177) trúng nhằm,
Sanh con ngu lỗ (178) mê tâm từ rày;
Ăn chi cua, ếch, lươn, cầy?
(Câu 770) Gan heo, huyết lợn, tiêu cay, rượu nóng?
Chớ nên phục dược khi không,
Lại kiêng thịt chết với cùng chích sao; (179)
Hưng công động thổ khi nào,
Đồ tể hung ác chớ vào tận nơi; (180)
Rau xanh cơm trắng theo đời,
Tai nghe tiếng đọc những người thi thơ;
Cũng đừng tĩnh tạo an cư, (181)
Sớm khuya khó nhọc kể từ mới thai;
Nào là than đốt nghệ mài,
(Câu 780) Dần dần sắm sẵn để mai lâm bồn;
Sanh con ra khỏi sản môn, (182)
Mẹ ngồi nhưng nghĩ việc con lâu dài;
Lòng thương chẳng lựa gái trai,
(Câu 784) Đặng chi mầng nầy chớ hoài phụ tâm;
Dẫn giải của Trương Vĩnh Ký
(165): Trẻ con hay rắn mắt ngược xuôi; nên binh nó quá mà nói mất lòng mất bè, … Như vậy thì ai dám chơi với mình?
(166): Vợ có vợ chính vợ bé, ai theo phận nấy ở hòa thuận cùng nhau. Sứa dầu có nhảy qua đăng đặng?
Chánh thất là vợ chính, vợ lớn.
Tiêu tinh là vợ bé, vợ nhỏ (mọn).
(167): Tiết 73 này nói con người về làm dâu, chịu tang trọng cho ình là con mình, lại con mình sau cũng gả về làm dâu người ta; nên cha mẹ đừng có làm nghiệt mà hành hà đày xất dâu con; không thương phận nó tội nghiệp.
(168): Hoặc chồng có con riêng con tư thì vợ cũng chẳng nên thương riêng con mình mà hẫn hủi con chồng; cùng nhiều càng tốt; có nó ó phần mồ dòng mả cho mình; có nó khi bệnh họan, khi tai biến có anh có em nhiều nó giúp đỡ nhau.
Chặt đũa trừ kem là tục thấy nhang bồng (phù thủy) hay làm trong lễ trừ phục, để 3 đồng tiền, 1 chiếc đũa, một cây nứa trồng dộng đầu, trứng gà luộc, đậu mè ran đi, đối nói với kem rằng: nay đồng tiền chiếc đũa đã chia hai phân ly đi rồi, thì mầy phải lìa vong nhơn đi; đến chừng nào mía mọc lên, trứng gà nở đặng, đậu mè mọc lên, thì mầy hãy theo vong ấy nữa. (thần giả vọng, vong giả thần).
Biên ái là mích lòng thương = thương không có đều.
Bất tiếu là chẳng giống, không giống tính cha mẹ.
Môn mỉ là mày cửa, là cây ngang trên cửa có chạm cửa, như cửa có vẻ mây, như mặt có vẽ mày chỉ là Dương quí phi (thời nhà Đường, Trung Quốc) làm sang trong cổng môn nhà mình.
Cô cầu là áo cơ áo cầu, chỉ dòng sang tử tế.
(170): Có thai mà sinh con trai con gái cũng là việc trời định trời cho, chẳng nên trách trời van đất. Trai mà nó không giống cha giống mẹ thì cũng chẳng ra gì. Gái cũng có gái có phước môn mi ở cung ở điện rạng tỏ tông môn, nên chẳng nên tráo chác mà ra khác dòng khác họ mà suy vong đi chẳng chơi.
(171): Trong việc nhà việc cửa có người có ta, mà ai lánh nặng tìm nhẹ mặc ai, mình cứ làm hết sức, mà cũng chẳng nên kể công kể linh ra mà mất hay đi.
(172): Mình làm thầy làm chủ thì phải ở hiền hậu nhơn đức với tôi tới trong nhà, ở cho có hậu, đứa nên lo dựng vợ gả chồng cho nó, đứa hư không nuôi được thì đuổi đi, đừng để mà hành hạ thân nó tội nghiệp mà thất đức, trời có con ngươi mà sau mình phải trả báo, chẳng khỏi đặng.
(173): Kết quả là khi có nghén rồi = đậu trái.
(174): Dục hỏa là lửa dục.
(175): Tử cung là lòng mẹ, chỗ tượng con.
(176): Yêu trái là chết yểu, chết trẻ, chết non.
Ghẽ sài là ghẽ chốc.
(177): Trược khí là khí nhơ.
(178): Ngu lỗ = dại chậm = khờ dại, mê muội.
(179): Khi không không đau đớn gì chớ có uống thuốc, lại thịt chết thịt nướng, đồ chiên đồ xào cũng phải cử.
(180): Dừng làm việc nặng mà đặng thai, chỗ người ta làm lụng việc thổ mộc, chỗ hung ác chọc huyết heo nơi lò cạo thì chớ có léo đến đó (đồ tể = lò heo).
(181): Đừng ngồi bí xị một chỗ.
Lâm bồn = đẻ.
(182): Tiết thứ 79 dạy đờn bà kiêng cử từ khi có nghén đến khi sinh thai nuôi con cho ăn cho bú, cùng khi lật, bò, xổm, chựng, đi, chạy, cho đến khi đi học.