Tân Bình phủ tri phủ, kiêm lý Bình Dương huyện, ti chức Nguyễn Hữu Thường.
Bẩm,
Vì việc hương hỏa, vâng đưa lời thẩm nghĩ hỏi tra, ngỏ nhờ quan trên thẩm lượng:
Nguyên trong hạt Bình Dương, tổng Bình Trị Thượng, làng Bình Hòa, có tên Lê Văn Cao đầu đơn kiện chú ruột nó là Lê Văn hậu giành một phần ruộng hương hỏa 20 mẫu, ti chức đòi cả tiên bị, chúng chứng mà hỏi.
Chiếu theo đơn Lê Văn Cao trinh rằng: ông nội nó là Lê Văn Hưởng, sanh ra có hai người con trai, trưởng nam Lê Văn Tình, là cha nó, thứ nam Lê Văn hậu, là chú nó. Nguyên ông nội nó có khai khẩn đặng 50 mẫu thảo điền, ở tại làng Phú Mỹ Tây, về tổng Dương Hòa hạ. Cha nó chết sớm. Tới năm tân tị, ộng nội nó già yếu, mới làm tương phân sở ruộng, có thân tộc cùng làng tổng sở tại làm chứng, lấy 30 mẫu chia hai cho hai con, phần cha nó thì về nó nó lãnh, còn 20 mẫu thì ông nội nó để lại mà dưỡng già, sống thì ăn dùng, chết thì để lo việc cấp táng, cùng làm hương hỏa.
Tới năm quí vì, tháng 4, mẹ nó là Trần Thị Phước, quán ở làng Thanh Ba, thuộc về huyện Phước Lộc, đau nặng, nó phải đi chạy thuốc, chẳng dè ông nội nó cũng đau nặng, nó nghe tin liền trở về thì ông nội nó chết rồi, nó chịu tang, chôn cất ông nội nó rồi lại phải đi nuôi mẹ, qua tháng 7 mẹ nó chết, nó phải ở lại lâu ngày.
Từ ấy chú ruột nó là Lê Văn Hậu giành lấy ruộng hương hỏa cho tới bây giờ là ba năm, mỗi năm cho mướn lúa 400 giạ. Nó có hỏi chú nó mà lãnh ruộng ấy lại, chú nó nói ông nội nó có trối để ruộng ấy cho chú nó ăn mà phụng tự; lại nói khi ông nó đau, nó không hầu hạ thuốc thang, bò mà đi xứ khác, bắt tội nó thất hiếu, không được ăn hương hỏa, ức lắm nó phải nhờ quan đoán dạy, các lời.
Hỏi ra Lê Văn Cao, là tiên cáo, khai rằng niên canh 24 tuổi, quê cha ở làng Bình Hòa, về huyện Bình Dương; quê mẹ ở làng Thanh Ba, về huyện Phước Lộc, chính là con một Lê Văn Tình, cũng là cháu đích tôn Lê Văn Hưởng. Năm quí vì tháng 4, mẹ nó đau nặng, nó phải đi nuôi, qua tháng 7 mẹ nó chết, là ngày tháng 6 nó có trở về mà chịu tang. Còn khi ông nội nó đau, nó mắc nuôi mẹ nó, phần thì ở xa không hay ông nó đau, nhưng vậy việc nuôi dưỡng ông nội nó, nó cậy có chú nó là Lê Văn Hậu, không phải là bỏ, các lời.
Hỏi ra danh hậu, là Lê Văn Hậu, là bị cáo khai rằng niên canh 47 tuổi, quán ở làng Bình Hòa, thuộc huyện Bình Dương. Từ ngày tháng 5, năm quí vì, cha nó là danh Hưởng đau nặng, qua 20 tháng sáu năm ấy thì chết. Cháu nó là danh Cao bỏ đi ở hạt khác, cách xa tổ quán, cho đến khi cha nó chết rồi danh Cao mới trở về. Khi cha nó đau không thấy danh Cao nuôi dưỡng, cực khổ có một mình nó chịu, bởi vậy khi cha nó gần chết, có trối để phần hương hỏa cho nó, vốn chẳng phải là tự nó giành ăn với cháu, các lời.
Hỏi ra chứng nhơn, Võ Văn Hội, niên canh 45 tuổi, là thôn trưởng làng Phú Mỹ Tây; Nguyễn Văn Hữu, niên canh 46 tuổi, là hương thân, Nguyễn Văn Y, niên canh 44 tuổi, là hương hào, đều là dịch mục làng Phú Mỹ Tây, khai rằng năm tân tị, ngày tháng 2, danh Hưởng là chủ ruộng trong làng, làm tờ tương phân, có mời làng chúng tôi làm chứng, chia một sở thảo điền 50 mẫu làm hai phần, một phần 30 mẫu chia cho hai con, là danh Tình, danh Hậu, mỗi người 15 mẫu; phần danh Tình đã chết rồi, thì giao cho con trai là danh Cao lãnh làm của riêng.
Còn 20 mẫu thì để làm phần dưỡng lão, danh Hưởng sống thì ăn, chết thì để lo cấp táng cùng làm hương hỏa cho danh Hưởng, đến khi danh Hưởng chết, sự thể làm sao, làng chúng tôi ở xa, không rõ, các lời.
Hỏi ra Lê Văn Chất, là cai tổng Dương Hòa Hạ, niên canh 50 tuổi, quán ở làng Phước Thạnh; Phạm Đăng Đạo, là phó tổng, niên canh 48 tuổi, quán ở làng Đức Hưng, đến trình rằng: hồi danh Hưởng còn sống làm tương phân sở ruộng Phú Mỹ Tây có mời chúng nó làm chứng. Lời khai cũng y như lời làng Phú Mỹ tây, các lời.
Hỏi ra thân tộc, là Lê Hữu Dung, niên canh 62 tuổi, quán ở tổng An Thủy, làng Bình Thung, khai rằng: năm tân tị tháng hai, không nhớ ngày, danh Hưởng làm tờ tương phân ruộng cho hai con, là danh Tình, danh Hậu, có nó dự việc. Phần danh Tình, là trưởng nam, chết sớm, thì về con là danh Cao lãnh.
Đến khi danh Hưởng chết, cũng có nó tới, thấy danh Hậu, danh Cao, cả chú cháu đều lo việc cấp táng. Một khi kị lạp cho danh Hưởng, danh Hậu cũng có mời thân tộc. Còn sự danh Cao đi ở làng Thanh Ba, bên huyện Phước Lộc mà nuôi mẹ nó có thất hiếu lẽ gì, trong thân tộc không rõ, các lời.
Các lả trước nầy đã có xét tra.
Tra giấy tương phân làm ra minh bạch, có làng tổng thị chứng.
Tra ra danh Cao, quả là con trưởng nam, cũng là cháu đích tôn Lê Văn Hưởng. Ông nội đau không lo nuôi dưỡng, bỏ mà đi xa, đến đỗi danh Hậu là chú nó giành lấy phần hương hỏa, là tại nó lỗi đạo thần hôn; nhưng luận thiên tính, mẫu tử chí thân, mẹ nó đau nặng phải chết, nó đi nuôi mẹ, cũng là hiếu, còn khi ông nội nó chết, nó liền trở về nhà chịu tang, thì chẳng phải là thất hiếu.
Tra ra danh Hậu, mình làm chú ruột danh Cao, trong lúc ông nó chết, mẹ nó ở xa cũng đau gần chết, nó về mà chôn ông rồi, thì đi nuôi mẹ, cũng là việc hiếu, lại sanh tâm giành phần hương hỏa cho tới ba năm, trong thân tộc không ai biết làm sao danh Cao phải mất hương hỏa; còn sự nói rằng có lời trối, thì là việc vô bằng, lẽ phải truy lúa mướn thượng niên mà trả lại.
Vâng chiếu hộ luật cùng điều lệ Minh Mạng, năm thứ 17, nội nhứt khoản có nói rằng: phép lập tư phải cứ trưởng nam trước.
Vâng nghĩ Lê Văn Hậu, là thứ nam, Lê Văn Cao, là con Lê Văn Tình, thì là con người trưởng nam cũng là đích tôn thừa trọng, phần ruộng 20 mẫu phải về Lê Văn Cao ăn mà phụng tự cho ông nội nó. Còn sự Lê Văn Hậu giành ăn hương hỏa ba năm, tra ra trong ba năm đều có làm việc giỗ quải, chẳng phải là ăn không, lúa mướn ba năm nghi hưu cho Lê Văn Hậu, phải trả ruộng hương hỏa mà thôi.
Ti chức siển nghĩ các điều, chưa biết nhằm lẽ cùng chăng, kính bày các việc nguyên do, ngỏ nhờ quan trên thẩm định.