Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Thúc hốt hành canh tứ thập niên,
Hoa triêu thích trị Quế giang (2) biên.
Dục tàm na phụ quy tang thị,
Phốc điệp thùy nhi tẩu táo thiên.
Tinh sứ gian quan yêm dịch quán,
Kinh thê (3) bần bệnh cách phương thiên.
Kinh doanh tráng chí mê như ngã,
Hồ thỉ (4) sinh sơ tiếu lãng huyền.
Dịch nghĩa: Tiết Hoa triêu nơi đất khách
Thời gian trôi nhanh thấm thoắt tuổi đã bốn mươi,
Tiết Hoa triêu đến vừa lúc ở bên bờ sông Quế.
Người đàn bà bán tằm ở chợ dâu về,
Đứa trẻ nhà ai chạy trên đường nhỏ trồng táo vồ bướm.
Sử giả vất vả lần chần mãi nơi quán trạm,
Người vợ từ thuở hàn vi, nghèo bệnh, cách trở phương trời.
Lo thi thố chí lớn, mê lầm như ta,
Cười cung tên lúc mới ra đời, treo uổng.
Chú thích
(1): Hoa tiêu: Tương truyền ngày 12 tháng 2 (có nơi là ngày rằm tháng 2, âm lịch) là sinh nhật của loài hoa nên ngày ấy gọi là Hoa triêu.
(2): Quế giang: là sông Quế, con sông chảy từ Quế Lâm, Quảng Tây đến Ngô Châu (Trung Quốc).
(3): Kinh thê: người vợ từ lúc hàn vi, do chữ kinh thoa bố quần (thoa bằng gai, quần bằng vải).
(4): Hồ thỉ: do chữ tang bồng hồ thỉ: ở đây ý chỉ chí làm trai.
Hoài Anh dịch thơ
Thấm thoắt tuổi mình đã bốn mươi,
Tiết Hoa tiêu đến giữa quê người.
Chợ dâu chị nọ mang tằm bán,
Đường táo trẻ nào chộp bướm chơi.
Sứ giả lần chần lâu quán trạm,
Vợ quê nghèo bệnh cách phương trời.
Đuổi theo chí lớn như tớ,
Treo uổng cung tên, thật đáng cười!
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.