Nằm trong chùm thơ: Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh
Bản chữ Nho và phiên âm
Đông Hồ dịch nghĩa
Ngọc núi vút xanh chạm đến sông trời,
Động đá long lanh chưa giấu ngọc bích.
Không định ý, khói và mây do nơi đó đi qua,
Không ngăn, không hạn chế, cỏ cây đều tự đó phát sanh.
Trải qua nhiều phong sương, càng thêm nét sáng đẹp lạ lùng,
Bóng ác bóng thỏ thường di chuyển, khí sắc thêm nhiều.
Chắc hẳn đây là nơi tinh hoa cao tuyệt rồi.
Tự do theo gió, thở hút ở trên chót vót thượng từng.
Đông Hồ dịch thơ
Xanh xanh ngọn đá chạm thiên hà,
Động Bích long lanh ngọc chói lòa.
Chẳng hẹn, khói mây thường lẩn quất,
Không ngăn, cây cỏ mặc la đà.
Phong sương càng dãi màu tươi đẹp,
Nhật nguyệt chi ngừng bóng lại qua.
Chót vót tinh hoa đây đã hẳn,
Theo chiều gió lộng vút cao xa.
Bài vịnh họa thơ Nôm
Lân la lại bước qua đông,
Nước vui thú nước, non mòng thú non.
Tấm lòng son đã say đòi cảnh,
Vọi giữa trời một đỉnh cao xây.
Chập chồng đá lập cao dày,
Một hang khép mở năm mây ra vào.
Tưởng Động Đào đâu đây lại sót,
Đoái tư bề, ngu ngút khí linh.
Trời gần ang tấc chẳng chừng,
Kề tòa bắc đẩu, dựa đình tử hư.(10)
Thú đã ưa chẳng cầu cũng có,
Ngay giữa trần dấu ngõ nguy nga.
Một hang thăm thẳm thay là,
Đã phun tám gió, lại hà năm mây.
Khi ta bay hòa trời lóm khóm,
Khi tụ về một đám lung lưng.
Gió thu ghe trận tưng bừng,
Cũng cơ lở cạn, cũng chừng lưng vơi.
Thở một hơi chín trời khí thoại,
Hòa mưa xuân nhuần tưới ruộng dâu.(20)
Khi làm sáng rỡ non Ngưu,
Cũng làm ngút tỏa ngang lầu Nhạc Dương.
Khắp bốn phương gồm về một động,
Máy hư linh hồ rộng khắp xa.
Rỡ ràng sắc cỏ màu hoa,
Đào say thức ráng, mai lòa đóa trăng.
Cảnh Vũ Lăng hỏi rằng ai phụ,
Phải đây là dấu cũ Thiên Thai.
Vách thơ mấy lũ trăm bài,
Chẳng hay Hán sĩ cũng tài Đường Nhu.(30)
Khách phong lưu nguyên đề đã hạn,
Dõi năm vần với bạn ngâm nga.
Thơ rằng:
Quỉ trổ thần soi nổi một tòa,
Chòm cây khóm đá dầu tiên gia.
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại,
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giới,
Chang bang một dãy chứa yên hà.
Chân trời mới biết kho trời đấy,
Cân đái hèn chi rỡ ỷ, la.
(Bản dịch của Thi sĩ Đông Hồ)