Châu Đốc phong cảnh thi:
Vui xem Châu Đốc cảnh thêm xinh,
Nhớ thuở Thoại hầu trấn Vĩnh Thanh.
Sông Trước sông Sau chia tả hữu,
Núi Sam Núi Két dấu anh linh.
Rạch ngòi giồng án không cùng lợi,
Cá mắm tằm tơ đệ nhứt danh,
May có Tú Thường người biết học,
Ra công dạy dỗ mày xanh.
Châu Đốc nguyên trấn Vĩnh Thanh,
Đặt đồn Châu Đốc lũy thành vẻn vang.
Sau phân làm tỉnh An Giang,
Nay Châu Đốc hạt sửa sang chỉnh tề.
Trước sông đá cẩn bực lề,
Bố đường cao rộng tư bề quang nghiêm.
Hình như tiên cảnh lặng yêm,
Nhơn dân lạc nghiệp lư diêm mật trù.
Sông quan uốn khúc tợ cù,
Châu thành phố xá giai cù đoan trang. (10)
Nhứt là ngả lộ Tây An,
Thẳng gnay rộng lớn lưỡng bàn có mương.
Lâu nay thiên hạ kêu thường,
Mương sâu mương cạn theo đường phân minh.
Thường niên ngư biết mảng dinh,
Dân mua thủy lợi lợi sanh trăm ngàn.
Mười tổng chín mươi chín làng,
Ai ai cũng ở nhà sàn cao chưn.
Bởi mùa nước ngập không chừng,
Khi to khi nhỏ đầy lưng khó dè. (20)
Vậy nên sắm sẵn nhà bè,
Trữ đồ buôn bán xuồng ghe mua thường.
Tốt thay Châu Phú thôn hương,
Miễu chùa nhà việc phô trương kĩ càng.
Hiềm vì một chỗ tồi tàn,
Miễu quan Chưởng lễ bỏ oan bấy chầy.
Ngài xưa công nặng đức dày,
Mở mang bờ cõi dẹp bầy kiến ong.
Miễu thờ vĩnh viễn non sông,
Cù lao Ông Chưởng người đồng thấy nghe. (30)
Biên Hòa một sở chỉnh tề,
Bởi vì thiện tính lạc đề háo thi.
Huống chi Châu Đốc nhơn nghì,
Viên quan hương chức nỡ gì lấp ngơ.
Chung tiền bồi đắp tư cơ,
Thì phần phước ấy cũng nhờ về sau.
Tục hay háo chuyện nhương cầu,
Thỉnh Thần tiên xuống hỏi âu dữ lành.
Thổ thần ở rạch Hộ Thành,
Xóm kêu Hàng Xáo hiển linh lên thường. (40)
Phụ cơ viết chữ chán chường,
Nhiều khi ứng nghiệm tỏ tường không sai.
Nhà thờ cao lớn rộng dài,
Học trường dạy dỗ nuôi tài thiếu niên.
Trần Hữu Huân, cũng sĩ hiền,
Nguyên xưa làm Huyện ở miền Bạc Liêu.
Chánh lành người thảy chuộng yêu,
Gia đình hiếu hữu dạy nhiều môn nhơn.
Thanh nhàn thi phú dưỡng chơn,
Tuy đà tử biệt còn cơn cảm tình. (50)
Lâm Phước Triều, người nước Thanh,
Người hay gan ruôt kinh dinh cơ đồ.
Lập thành đại nghiệp qui mô,
Tiệm kia tiệm nọ buôn to muôn ngàn.
Tiếng đồn Châu Đốc thất san,
Kể sao cho hết cả ngàn danh nham.
Lịch thay phong cảnh núi Sam,
Mả quan tiền nhậm thuở làm lắm công.
Thoại hầu tiết rạng non sông,
Còn ngôi thạch mộ người đồng gọi lăng. (60)
Núi Sam phía Bắc dưới chưn,
Đắp phong mã lạp bổn căn một nền.
Ngài xưa bảo hộ Cao Mên,
Ghe phen án thủ giữ bền an biên.
Đào kinh Lạc Dục Long Xuyên,
Giáp vô Rạch Giá bia truyền Thoại Sơn.
Đào kinh Vĩnh Tế lại hơn,
Danhh chồng danh vợ không sờn cả hai.
Thoại Sơn thì đặt tên ngài,
Bà là tên Tế lâu dài với sông. (70)
Sông tên bà, núi tên ông,
Thoại Sơn Vĩnh Tế song song miên trường.
Cách chừng vừa một dặm trường,
Có am Bà Thợ lửa hương phụng trì.
Thầy thông Cang, bụng háo thi,
Tháp chôn Bà Thợ tốn khi quá ngàn.
Cang chịu bạc hơn một ngàn,
Còn bao nhiêu nữa phân chan cho người.
Suối vàng Bà Thợ ngậm cười,
Thầy Cang cũng tiếng rạng ngời muôn năm. (80)
Thương thay người rất hảo tâm,
Rủi ro nay đã qui âm số trời.
Sống sao thác vậy nhớ lời,
Đem về an táng kế nơi tháp bà.
Thiện nam tín nữ gần xa,
Nội Châu Đốc hạt đều là yêu thương.
Tạc làm thần chủ tỏ tường,
Thờ trong am tự thường thường nghiêm trang.
Một tòa chùa Phật Tây An,
Nhứt Thừa hòa thượng thanh nhàn tiên du. (90)
Roi truyền y bát mấy thu,
Nay còn các sãi giữ tu đến rày.
Núi Sam trên núi cao xây,
Tháp đài vọi vọi ngó tày vân tiêu.
Cây reo tiếng tợ tiêu thiều,
Sương mơi mát mẻ gió chiều lai rai.
Nhà lầu rộng rãi an bài,
Mỗi phòng đều có cẩm lai ván ngồi.
Lính thường canh gác lau chùi,
Các loài thập vật mộ ngôi sẵn sàng. (100)
Bông hoa cây trái tứ bàn,
Đường quanh theo núi đi càng thung dung.
Tốn hao hết mấy nhơn công,
Chi nhường phong cảnh chỗ Bồng Lai tiên.
Quan gia lui tới liền liền,
Núi Sam danh tiếng cũng miền thanh bai.
Trà Sư cho đến núi Giài,
Dân cư rẫy ruộng lúa khoai đầy đường.
Đốc công tạo lập sở vườn,
Thanh hoa đẳng vật coi thường vẻn vang. (110)
Cất bên một cái nhà bàng,
Để khi ăn uống nghĩ an luận bàn.
Sau lập chợ phố hai hàng,
Người đều kêu chợ Nhà Bàng thành danh.
Vui xem Núi Két cảnh xinh,
La-kê Đốc học lập thành vườn to.
Bấy lâu gầy dựng qui mô,
Nay đà cây trái trời cho hưởng nhờ.
Cư dân trù mật cõi bờ,
Ruộng vườn rẫy bái tư cơ trăm ngàn. (120)
Cây dương trồng thẳng một hàng,
Tại chùa Bóng Thị cảnh càng lịch thanh.
Chùa coi tinh khiết hữu tình,
Mà đồ vật dụng sắm sanh quá kỳ.
Ghế giường chén dĩa thiếu chi,
Mùng mền chiếu gối biết thì bao nhiêu.
Đêm khuya cúng cấp quạnh hiêu,
Chùa không thờ Phật bàn nhiều nghinh ngang.
Thị là bổn chất nam trang,
Mà bề cử chỉ giả trang nữ hình. (130)
Tu hành bày sự trớ trinh,
Gạt người lấy của kinh dinh cho mình.
Núi Đài Tốn, chỗ anh linh,
Mên kêu Coài Tón âm thinh cũng gần.
Nghề hay đồ gốm hỏa phần,
Cà ràng trách trã người mần thường cuyên.
Bắp khoai mía đậu khắp miền,
Phố phường nhà cửa xóm riềng nghiêm trang.
Học trường điển xá của quan,
Miễu chùa tu chỉnh lớp lang phải bề. (140)
Tuy là một chỗ xứ quê,
Trên bờ dưới nước phủ phê bĩ bàng.
Nguyên xưa đất lắm hoang nhàn,
Mấy ông lớp trước mở mang rạch cồn.
Sở tại là Hưng Nhượng thôn,
Thành hoàng miễu võ nghiễm tôn một tòa.
Thuở chưa thiết lập quan nha,
Ông Tri huyện Ở võ ca đình thần.
Võ Văn Vạng, tánh mẫn cần,
Việc quan khuya sớm dần dần ra công. (150)
Đào kinh tên Bọt-Cơ-Giông,
Thấy dân nghèo khổ lấy lòng thương dân.
Chạy tờ xin tỉnh thi ân,
Quan trên cho bạc tạo tân Huyện đường.
Lại xin lập điển báo trường,
Sửa sang phong cảnh dạy hương chức làng.
Thất sơn hòn dọc hòn ngang,
Nói sao cho xiết cả ngàn phong cương.
Sa nhơn trầm tốc giáng hương,
Thổ nghi dược liệu thường thường có sanh. (160)
Bông mai vàng trắng tươi xinh,
Đến mùa bẻ xuống bán nhành chơi xuân.
Cát với đá, vật trong rừng,
Dân nhờ huê lợi chuyển luân xây dùng.
Vôi thì tại xứ Càn Long,
Núi Sam đá tốt cát ròng trắng tinh.
Mấy cù lao ở xanh quanh,
Lao Ba thứ nhứt đậu xanh dâu chàm.
Bắp dưa khoai mía siêng làm,
Dân cư hai phía Bắc Nam mật trù. (170)
Đẹp thay địa cảnh Tân Châu,
Kiểm lâm ở đó coi thâu thuế bè.
Các bè cây gỗ kiến tre,
Nơi trên sông lớn thả về ghé ngang.
Kiềm lâm xem xét kĩ càng,
Nạp, đăng bạc thuế rõ ràng rồi đi.
Dinh quan Đốc phủ oai nghi,
Phần ngài cai trị vậy thì xả dân.
Nguyễn Trung Thu, nết thận cần,
Sửa nên phong tục mỹ thuần khá khen. (180)
Kề mé sông chợ đông ken,
Bán buôn đông đảo tối đèn sáng giăng.
Bờ kinh nhà cửa lăng xăng,
Xóm nhà đông lắm gọi rằng Châu Giang.
Gốc xưa Ai Cập đem sang,
Lớp nào không biết ở an đến rày.
Ngày nay sanh đẻ đông dầy,
Nam phụ lão ấu cà bầy cả phe.
Nghề hay buôn bán dưới bè,
Chở chuyên cây ván xuồng ghe bộn bàn. (190)
Thuốc trên sông lớn Nam Vang,
Mua về bán khắp lưỡng giang hậu tiền.
Bán đồ gấm nhiễu thường niên,
Rạch ngòi ruộng rẫy tánh siêng làm hoài.
Đi ghe đem đỏi lưới chài,
Kiếm tôm kiếm cá hôm mai đỡ tiền.
Nhặt nghiêm rượu thịt cử kiêng,
Trà ngon bánh tốt sắm liền để ăn.
Giữ bề cần kiệm làm căn,
Bảy ngày một bữa lệ hằng nghỉ ngơi. (200)
Coi cũng như đạo Chúa Trời,
Đến ngày lễ bái vui chơi thanh nhàn.
Lệ bữa nghỉ, chà Châu Giang,
Đọc kinh đánh trống vái van tại chùa.
Chùa không thờ Phật thờ vua,
Tư bề trống trải như chùa bỏ hoang.
Đâu đâu sạch sẽ kĩ càng,
Nhắm mặt trời lạy lại càng thành tâm.
Đọc kinh Ai Cập thinh âm,
Cứ ngày ba buổi lâm râm lạy trời. (210)
Mỗi năm chừng đến tháng mười,
Lệ bày đoạn thực phép thờ quá gay.
Không ăn nhịn đói cả ngày,
Nửa đêm thinh tịnh dọn rày ra ăn.
Nhịn trong một tháng thẳng băng,
Gốc xưa Hồi giáo lưu căn tới rày.
Tên Ma-Cáp-Mặt cũng hay,
Tổ sư Hồi giáo làm thầy khởi ra.
Người sanh tại xứ Mạch Gia,
Làm nên sách dạy gọi là Khả Lang. (220)
Phép đạo rằng Y-Tư-Lang,
Lưu truyền đồ đệ muôn ngàn thạnh đông.
Tây nam các nước phục tùng,
Miễu thờ Cáp-Mặt tôn sùng vạn niên.
Thuở kia đội ngũ binh biền,
Kêu quân chiến thắng trận liền lập công.
Đua ghe có tiếng Nam Trung,
Nhẹ nhàng mạnh lẹ ruổi dung hướng tiền.
Cám thương ông Hiệp Quản Tuyên,
Người đều khen ngợi sanh tiền trung can. (230)
Châu Giang tục cất nhà sàn,
Mái xuôi nóc dọc vẻn vang ra vào.
Chừa song cửa ấy mở thông,
Trong nhà con gái đã chồng an nơi.
Tánh không lãng phí ăn chơi,
Gái trai cần mẫn lẽ trời tự nhiên.
Làm ăn ưa ở giang biên,
Dễ bề xây dựng chở chuyên gần nhà.
Vũng Bình Thiên phía trên xa,
Ca-cô-ki cũng xóm Chà ở đông. (240)
Thổ nghi phong tục lược đồng,
Coi ra đại khái như dòng Châu Giang.
Chà Ca-Cô lắm thói gian,
Năng đi giả mạo xưng quan xưng thầy.
Lao-táng-dù đẹp lắm thay,
Tiếng lụa Bà Tứ lâu nay danh đồn.
Thiệt thà dân ở hương thôn,
Nghề trồng dưa đậu dầy cồn lịch thanh.
Cái Vừng thổ sàn rất xinh,
Xứ làm tơ lụa có danh Nam kỳ. (250)
Dưới trên rẫy ruộng thiếu chi,
Miễu chùa tế tự lễ nghi tỏ tường.
Có người dự trúng khoa trường,
Làm thầy nho học Tú Thường là tên.
Mấy chụ năm nay rất bền,
Học trò các xứ xuống lên ra vào.
Lao Tây một chỗ cù lao,
Nhà thờ Thiên Chúa xây cao hai từng.
Bông hoa cây trái đua mừng,
Tư bề ruộng khẩn kinh rừng mới khai. (260)
Mã trường rạch dọc mà dài,
Tục kêu Ruột Ngựa còn hoài hiệu danh.
Thường niên thủy lợi thâu thành,
Mua đi bàn lại dinh sanh đủ dùng.
Dân nhờ lúa gạo thêm sung,
Lại thêm đồ rẫy trồng cùng hương thôn.
Vàm Nao thuở trước tiềm long,
Tây Sơn tặc đảng điệp trùng xâm lăng.
Ngang qua theo mé Ba Răng,
Rạch ngòi thủy lợi giăng giăng cả đồng. (270)
Mặt-Dòn thượng hạ song song,
Diện-Hầu thượng hạ chữ trong bộ làng.
Tục kêu hai xứ rõ ràng,
Sở trên sở dưới muôn ngàn dân đông.
Biết bao nhiêu giống cá đồng,
Phái viên các cậu mua trùm trên quan.
Rồi thì bán lại cho làng,
Mấy người cầm rạch chứa chan bạc tiền.
Trà Dư Hùng Ngự các miền,
Với hai sở ấy đất liền ở trong. (280)
Sông dài nước cỏ minh mông,
Cá sanh tràng nhẩy ruổi dong rạch nò.
Lóc rô trèn kết sặc vồ,
Châu Dốc vồ đém với là trên-răng.
Điếm đàng cờ bạc lăng xăng,
Thú vui đĩ thả ở giăng xóm làng.
Thầy làm thuốc dạo cũng nhàn,
Đậu ghe theo chỗ tể hoàn đơn cao.
Tối thì mòng muỗi ào ào,
Ở đâu quen đó biết sao mà từ. (290)
Châu Đốc lúa gạo không dư,
Nhờ sơn thủy lợi lợi cừ vạn thiên.
Sông Vĩnh Tế, vào Tịnh Biên,
Dân cư theo xóm địa liên Giang Thành.
Giang Thành có miễu anh linh,
Thờ ba ông lớn sự kinh lâu đời.
Xứ coi quê kịch một nơi,
Mà bề tế tự cúng mời đủ nghi.
Khá khen hương chức nhơn nghì,
Ngọn rau tất đất lắm khi kính thành. (300)
Nam kỳ biết mấy rạch kinh,
Một kinh Vĩnh Tế có danh rộng dài.
Hớn Mên xen ở trong ngoài,
Vào tới Giang Thành có ngả chia hai.
Tả biên ngó thấy Pháo đài,
Bên kia phá biển mé ngoài hà Tiên.
Hữu biên Sốc-mẹt tới miền,
Giáp lên Mên cảnh đất liền minh minh.
Dầu chai tiếng xứ Lình Quỳnh,
So bề đượm tốt Tây Ninh hơn nhiều. (310)
Trời sanh phong thổ mỹ miều,
Nước non lợi lộc biết nhiêu bạc vàng.
Bởi vì tiền hậu nhị giang,
Đuôi cù lao Kết rõ ràng phân hai.
Sông Sau một ngọn lớn dài,
Bên kia Châu Đốc xuống hoài vơi vơi.
Chảy về Ba Thắc các nơi,
Chảy luôn ra biển xa khơi vô chừng.
Sông Trước phía bên Cái Vừng,
Tàu Nam Vang tới thì ngừng Tân Châu. (320)
Chảy về Sa Đéc Cái Tàu,
Vĩnh Long xuống Mỹ có cầu nghiêm trang.
Chảy ra Cửa Tiểu một đàng,
Hai bên các rạch trăm ngàn linh tinh. (324)