Rạch Giá phong cảnh thi:
Vui tình hứng cảnh xứ Kiên Giang,
Dâu bể đổi đời khéo sửa sang.
Chánh bố đường, lầu đài tráng lệ,
Vĩnh Thanh Vân phố xá nghiêm trang.
Chôn bùn ngọn bút ngời màu chữ,
Giằm các trành gươm lố cốt gan.
Hòn đất hòn tre non nước tạc,
Ghe phen giúp đỡ đức Cao hoàng.
Rạch Giá nguyên huyện Kiên Giang,
Thuộc Hà Tiên tỉnh rừng hoang tư bề.
Xưa kia hiu quạnh xứ quê,
Bây giờ thành phố chỉnh tề sửa sang.
Bố đường cao rộng nghiêm trang,
Ngó ra kề biển thanh quan đẹp tình.
Nhà chợ một nóc thinh thinh,
Cầu đường sạch sẽ châu thành vẻn vang.
Vĩnh Thanh Vân xã một làng,
Chánh thôn sở tại kĩ cang đâu dằng. (10)
Nhờ quan chánh bố La Răng,
Qui mô sắp đặt bổn căng vững vàng.
Hớn Thổ sáu mươi chín làng,
Mà bề lịch tốt là làng Thanh Vân.
An-nam không có đình thần,
Theo Mên theo Khách lo phần cúng chung.
Bởi vì người ở mới đông,
Lễ nghi phép tắc chưa thông đủ điều.
Chùa Bà hương hỏa dập dìu,
Chùa Ông Bắc Đế biết nhiêu tôn sùng. (20)
Chùa Ông Bổn, với Chùa Ông,
Các Chùa Phật Thổ các giồng xanh quanh.
Vĩnh Thanh Vân, cảnh đẹp xinh,
Bởi Trần Chánh Chiếu công trình sửa sang.
Bốn năm làm xã gian nan,
Gốc nguyên chức trước đứng bàn thông ngọn.
Tánh người lanh lợi khéo khôn,
Xuất thân trợ sự nội thôn châu thành.
Mở mang sắp đặt cải canh,
Phố phường chợ búa phân minh tư bề. (30)
Đâu đâu thảy có luật lề,
Dân du lính tập chẳng hề dám ngang.
Sổ thẩu sổ xuất kĩ càng,
Nhà dân số hiệu rõ ràng không sai.
Vinh thăng Tri phủ văn dai,
Quốc gia ân hậu lâu dài hiển vinh.
Nối làm chủ bút nhựt trình,
Với ông Huyện Trụ kinh dinh sắp bày.
Phò trì phong hóa rất hay,
Gọi là Nông cổ tháng ngày công lao. (40)
Thánh hiền tào phách bì mao,
Còn trong đạo vị chút nào cũng may.
Kiếm tìm sự tích xưa nay,
Chuyện chi hữu ích in rày để coi.
Tay cầm ban quản một ngòi,
Nôm na dấu để gương soi đành rành.
Người xưa khoa mục học hành,
Ông Tuần phủ Đạt triều đình chuộng yêu.
Phú thi ngâm vịnh rất nhiều,
Tác thành môn đệ người đều lớn khôn. (50)
Nay còn để dấu khương tôn,
Văn chương lễ nghĩa thập tồn nhị tam.
Lâm tuyền ẩn dật tự cam,
Tánh thầy Nhiêu Chánh không kham theo đời.
Mấy năm chẳng chịu dạy người,
Dần dần tiêu mất hết mười phần nhu.
Càng ngày kinh sử hoang vu,
Song mà phong tục tạc thù tương đôn.
Tập thành phong hóa các thôn,
Ruột gan khẳng khái lưu tồn hiếu trung. (60)
Kiên Giang ngoài biển trong đồng,
Trải xem thổ sản đồ dùng biết bao.
Cá Thu cá Cháy cá Cào,
Mực tươi khô gộc con hàu con đuông.
Cá đồng rạch trữ luôn luôn,
Nghề riêng mắm ruốt ngàn muôn bạc tiền.
Làm ăn đất tốt nước hiền,
Gạo thơm trắng dẻo có liền cả năm.
Dưa Môn bán cũng tiền trăm,
Mùa ong sáp mật đi thăm đầy rùng. (70)
Sân chim thay đổi không chừng,
Tại nơi Cái Lớn trong rừng lạ thay.
Hoặc là chỗ đó năm nay,
Lai niên chỗ khác gần rày một bên.
Giữa rừng dây choại kẹo lền,
Chim bay đáp xuống hóa nên sân bằng.
Người ta khéo kiếm làm ăn,
Lớp phơi lòng thịt lớp căng mỡ dầu.
Mà chim chẳng chịu đi đâu,
Mỗi năm mỗi bị tróc câu một lần. (80)
Đã hay vật dĩ dưỡng dân,
Dưỡng mà không đủ cứu bần trợ nguy.
Nỡ nào giết hết tông chi,
Tưởng nghề sanh lý cứu bần trợ nguy.
Lâu nay mấy chú hại chim,
Thường khi ngó thấy liêm diêm nghèo hoài.
Chiếu bông khổ vắn khổ dài,
Dệt ba bốn hạng cũng tài trong tay.
Xứ Rạch Giá, các thứ cây,
Tràm Nhum Kè Giá nhẩy đầy rừng hoang. (90)
Ruộng khai khẩn đất cả ngàn,
Ruộng đâu kinh đó sẵn sàng người ta.
Cái Bé, Cái Lớn, thẳng qua,
Dân cư theo xóm đều là nghiệp nông.
Ngặt vì nước biển mặn nồng,
Cây trái khó trồng người ở chưa đông.
Xáng đào kinh rạch đều thông,
Ngày sau đây cũng thạnh sung như thường.
Thổ Châu là xóm hiền lương,
Tục kêu Hòn Đất nhiều vườn trồng tiêu. (100)
Cà ràng trách trả quá nhiều,
Làm rồi đốt trấu hầm đều đem ra.
Không như đất sét của ta,
Đất coi xốp bở làm đà quá mau.
Bán cùng thiên hạ đâu đâu,
Dân nhờ huê lợi bền lâu xây dùng.
Thuở Cao hoàng đế Gia Long,
Lắm khi trú tấc ruổi dung lánh nàn.
Sử xanh còn chép rỡ ràng,
Ngọn rau tấc đất thấy càng cảm thâm. (110)
Hòn Tre hình tợ rùa nằm,
Quan Tây mới khẩn mấy năm lập vườn.
Cũng là khôn khéo lo lường,
Hao công tốn của lập đường về sau.
Nay đà cây trái tốt mầu,
Dần dần hoa lợi góp thâu đặng nhờ.
Thon von giữa biển cõi bờ,
Siêng thời gầy dựng tư cơ chỉnh tề.
Tốt thay phong cảnh Hòn Tre,
Kiên Giang ngoại án xa che diện tiền. (120)
Có cái hang, ở tả biên,
Rộng hơn mười trượng miệng viên hẹp hòi.
Đứng ngoài nhắm nhía mà coi,
Có một cái mái hẳn hòi quá to.
Cớ sao đem lọt nó vô,
Chẳng hay khi trước lớp mô để đời.
Sóc Mên xóm ở các nơi,
Dân đều nghề nghiệp thảnh thơi trong nhà.
Chùa Mên thờ Phật các tòa,
Lễ nghi tập tục như là Trà Vinh. (130)
Trời cho đất nước hiền lành,
Trên bờ dưới biển dinh sanh dễ dàng.
Nhà giàu tiền của muôn vàn,
Nhà nghèo cũng đủ rảnh rang không cầu.
Mé ngoài giáp đến Cà Mau,
Mé trong giáp đến địa đầu Hà Tiên.
Phía Tây giáp lại Long Xuyên,
Cả trong toàn hạt ruộng liền với kinh.
Học trường sĩ tử linh tinh,
Một trong Rạch Giá châu thành thạnh sung. (140)
Bởi thầy Đốc Thiện có công,
Sớm khuya dạy dỗ đồng mông tấc tình.
Có con gái, biết học hành,
Dạy nơi trường gái cũng vinh phận nhàn.
Người trong son phấn điểm trang,
Nhờ cha dạy dỗ danh sang mỹ miều.
Sách đèn gắng sức mơi chiều,
Văn phòng tứ bửu thiệt nhiều thú xinh.
Kiên Giang huyện nhỏ có danh,
Ở theo mé biển đất bình rộng thinh. (150)
Diện tiền hải thủy minh minh,
Bãi cồn bốn phía ghe khinh bị chìm.
Thường khi buôn bán trong Xiêm,
Trời thanh biển lặng thuận êm khá lời.
Tàu hải Nam thường tới chơi,
Chở đồ tạp hóa tạnh trời năng qua.
Thứ Năm, thứ Sáu, thứ Ba,
Thư Tư, thứ Nhứt, với là thứ Hai.
Bảy, Tám, Chín, Mười quá dài,
Tên mười cửa biển đi hoài vòng nong. (160)
Nhà dân rải rác cũng đông,
Giáp Bạc Liêu hạt minh mông biển rừng.
Phía bên Rạch Giá có phần,
Phía Cà Mau phủ có chừng hạng ranh.
Ngày nay lúa ruộng thâu thành,
Cần Thơ thứ nhứt nhị đành Kiên Giang.
Bấy năm khai phá đất hoang,
Đào kinh mở rạch ngổn ngang tư bề.
Nên ra đất tốt ê hề,
Đất đâu lúa đó phủ phê nhẩy tràng. (170)
Mấy ông hào hộ lắm trang,
Ăn chơi gan ruột giàu càng lịch thanh. (172)