Hồi thứ 21 – Chung: Vân Tiên gặp Nguyệt Nga về tâu vua, ân oán trả rồi về vinh qui cưới nàng Nguyệt Nga.

Đoạn nầy tới thứ Nguyệt Nga;

Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.

Ðêm khuya chong ngọn đèn ngồi;

Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi.

Quan âm thuở trước nói gì;

Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.

Ðã đành đá nát vàng phai;

Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.(1810)

Phải chi hỏi đặng Nam Tào;

Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau.

Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu;

Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.

Kêu rằng: Ai ở trong nhà;

Đường về quan ải chỉ ra cho cùng.

Nguyệt Nga ngồi sợ hãi gùng;

Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.

Lão bà lật đật hỏi chào;

Ở đâu mà tới rừng cao một mình?(1820)

Vân Tiên mới nói sự tình;

Tôi là quốc (quấc) trạng trào đình sai ra.

Đem binh dẹp giặc Ô Qua.

Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây.

Lão bà nghe nói sợ thay;

Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già.

Vân Tiên ngồi nhắm Nguyệt Nga;

Lại xem bức tượng lòng đà sanh nghi.

Hỏi rằng: Bức ấy tượng chi;

Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình. (1830)

Ðầu đuôi chưa rõ sự tình;

Lão bà khá nói tánh danh cho tường.

Lão bà chẳng dám lời gian;

Tượng này vốn thật chồng nàng ngồi đây.

Tiên rằng: Nàng xách lại đây;

Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe.

Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè;

Mặt thời giống mặt còn e lạ người.

Ngồi che tay (tai) áo hổ (hỗ) ngươi;

Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.(1840)

Rằng: Sao nàng chẳng nói đi?

Hay lời ta hỏi động chi chăng là?

Nguyệt Nga khép nép thưa qua;

Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.

Chàng đà về chốn cửu tuyền;

Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng.

Vân Tiên nghe nói hỏi phăn;

Chồng là tên ấy vợ là tên chi?

Nàng bèn tỏ thiệt một khi;

Vân Tiên vội vã (vả) xuống quì vòng tay.(1850)

Thưa rằng: Nay gặp nàng đây;

Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.

Để lời thệ hải minh sơn;

Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.

Vân Tiên vốn thiệt là tôi;

Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ.

Nguyệt Nga bảng lảng bơ vơ;

Nửa (nữa) tin rằng nửa (nũa) ngờ rằng ai.

Thưa rằng: Đã thiệt tên ngài;

Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua.(1860)

Vân Tiên dẫn (dẩn) tích xưa ra;

Nguyệt Nga khi ấy khóc hoà như mưa.

Ân tình càng kể càng ưa;

Mảng (mãng) còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.

Xẩy nghe quân ó vang dầy;

Bốn bề rừng bụi khắp bày can (cang) qua.

Vân Tiên lên ngựa trở ra;

Thấy cờ đề chữ hiệu là Hán Minh.

Hán Minh khi ấy dừng binh;

Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.(1870)

Minh rằng: Tẩu tẩu ở đâu;

Cho em coi mặt chị dâu thể nào;

Vân Tiên đem Hán Minh vào;

Nguyệt Nga đứng vậy miệng chào có duyên.

Minh rằng: Tưởng chị ở Phiên;

Quyết đem binh mã tới miền Ô Qua.

May đâu sum hiệp một nhà;

Giặc đà an giặc khải ca hồi trào.

Tiên rằng: Nàng tính thể nào;

Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên. (1880)

Ngõ nhờ lượng cả bề trên;

Lịnh tha tội trước mới nên về nhà.

Trạng nguyên từ giã lão bà;

Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày.

Ta về đem bức tượng nầy;

Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà.

Tiên Minh trở ngựa đều ra;

Ðem binh trở lại trào ca đề huề.

Sở vương nghe Trạng nguyên về:

Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.(1890)

Sở vương bước xuống kim giai;

Tay bưng chén rượu thưởng tài Trạng nguyên.

Phán rằng: Trẫm (Trẩm) sợ nước Phiên;

Có ngươi Cốt Ðột phép tiên lạ lùng.

Nay đà trừ Cốt Ðột xong,

Thực trời sanh trạng giúp trong nước nhà.

Phải chi trước có trạng ra;

Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ?

Lịnh truyền mở yến triều đô;

Rày mừng trừ giặc Ô Qua đặng rồi. (1900)

Trạng nguyên quì tấu một hồi;

Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.

Sở vương nghe tấu ngỡ (ngở) ngàng;

Phán rằng: Trẫm (trẩm) tưởng rằng nàng ở Phiên.

Chẳng ngờ nàng với Trạng nguyên;

Cùng nhau trước có nhơn duyên thuở đầu.

Thái sư trước bệ quì tâu;

Ô Qua dấy động qua mâu cũng vì.

Trá hôn oán ấy nên gây;

Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân.(1910)

Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng;

Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa.

Thái sư trước chẳng lo lừa;

Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng?

Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng;

Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.

Ngay gian sao cũng có trời;

Việc nầy vì trẫm (trẩm) nghe lời nên oan.(1920)

Trạng nguyên tâu trước trào đàng:

Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.

Trịnh Hâm là đứa gian tà;

Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen.

Sở vương phán trước bệ tiền;

Những ngờ tưởng ngõ tôi hiền mà thôi.

Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi;

Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng.

Hán xưa có gã Đổng công;

Nuôi thằng Lữ (lử) bố cướp dòng nhà Lưu.(1930)

Đời xưa tôi nịnh biết bao;

Thái Sư nay cũng có khác nào đời xưa.

Thấy người trung chánh chẳng ưa;

Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.

Trịnh Hâm tội đáng chém đầu;

Ay là mới hết người sau gian tà.

Sở vương phán trước trào ca;

Thái sư cách chức về nhà làm dân.

Trịnh Hâm là đứa bạo thần;

Giao cho quốc (quấc) trạng xử phân pháp hình.(1940)

Nguyệt Nga là gái tiết trinh;

Sắc phong quận chúa hiển vinh rõ ràng.

Kiều công xưa mắc tội oan;

Trẫm (trẩm) cho phụ chức làm quan Đông Thành.

Trạng nguyên dẹp giặc đã đành;

Kiệu trương tán phụng cho đành vinh hoa.

Bãi chầu chư tướng trở ra;

Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.

Họ Vương họ Hán họ Bùi;

Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.(1950)

Trạng nguyên mới hỏi một lời;

Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?

Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào;

Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh.

Minh rằng: Ai mượn kêu anh?

Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.

Dẫn ra chém quách cho rồi;

Ðể chi gai mắt đứng ngồi căm gan?

Trực rằng: Minh nóng nói ngang;

Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi?(1960)

Xưa nay mấy đứa vô nghì ;

Dầu cho có sống làm gì nên thân?

Hâm rằng: Nhờ lượng cố nhân;

Vốn em mới dại một lần xin dung.

Trạng rằng: Hễ đứng anh hùng;

Nào ai có giết đứa cùng làm chi?

Thôi thôi ta cũng rộng suy;

Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.

Hâm mầng khỏi chết rất vui;

Vội vàng cúi lạy (lại) chơn lui ra về.(1970)

Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê;

Ngồi chai bộ mặt như về thịt trâu.

Hán Minh Tử Trực vào tâu;

Xin đưa quốc (quấc) trạng kịp chầu vinh qui.

Một người Bùi Kiệm chẳng đi;

Trong lòng hổ thẹn vì mình máu dê.

Trạng ngươn xe giá chỉnh tề;

Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.

Bạc vàng đem tạ lão bà;

Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành.(1980)

Võng điều gươm bạc lọng xanh;

Trạng nguyên Tử Trực Hán Minh lên đàng.

Trịnh Hâm về tới Hàn giang;

Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay,

Trịnh Hâm bịcá nuốt rày;

Thiện trời  báo ứng lẽ nầy rất ưng.

Thấy vầy nên dửng dừng dưng;

Làm người ain nấy thì đừng bất nhân.

Tiểu đồng trước giữ mộ phần;

Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.(1990)

Của đi khuyên giáo mấy năm;

Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.

Hiềm chưa thế đặng người ta;

Còn đương thơ thần vào ra Đại Đề.

Trạng nguyên khi ấy đi về;

Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng:

Tiểu đồng hồn bậu có thiêng;

Thảo tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay.

Ðọc văn nhớ tới châu mày;

Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.(2000)

Người ngay Trời Phật động lòng;

Phút đâu ngó thấy Tiểu đồng đến coi.

Trạng nguyên còn hãy sụt sùi;

Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.

Tiểu đồng nhắm ngử nhìn nghiêng;

Ông nầy sao giống Vân Tiên cũng kì!

Ông nào mất xuống âm ti;

Ông nào còn sống nay thì làm quan!

Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:

Phải ngươi đồng tử mắc nàn (mắt nàng) chốn ni?(2010)

Mấy năm tớ mới gặp thầy;

Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn;

Ai dè còn thấy bổn quan;

Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.

Trạng nguyên khi ấy mừng vui;

Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại Đề.

Đoạn thôi xe giá ra về;

Tuần du phút đã gần kề Hàn giang.

Võ công từ xuống suối vàng;

Thể Loan cùng mụ Quỳnh (Quình) Trang đeo sầu.(2020)

Mẹ con những mảng (mãng) lo âu;

Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh:

Cùng ta xưa có ân tình;

Phải ra đón rước lộ trình họa may.

Loan rằng: Mình ở chẳng hay;

E người còn nhớ những ngày trong hang.

Trang rằng: Con có hồng nhan;

Cho chàng thấy mặt thì chàng cũng ưa.

Ví dầu còn nhớ tích xưa;

Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công.(2030)

Cùng nhau bàn luận đã xong;

Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.

Nay đà tới thứ Trạng nguyên;

Hàn giang đã tới bỗng liền đóng quân.

Bạc vàng châu báu áo quần;

Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều.

Ngư tiều nay đặng danh biêu;

Ơn ra một buổi của nhiều trăm  xe.

Trạng nguyên chưa kịp trở về;

Thấy Quỳnh (Quình) Trang đã đứng kề trong quân.(2040)

Trang rằng: Tưởng chữ hôn nhân.

Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên;

Võ công đã xuống Huỳnh tuyền;

Xin thương lấy chút thuyền (thiền) quyên phận nầy.

Trạng rằng: Bưng bát nước đầy;

Ðổ (đỗ) ngay xuống đất hốt rày sao xong?

Oan gia nợ ấy trả xong:

Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi?

Hán Minh Tử Trực đứng coi

Cười rằng: Hoa khéo làm mồi trêu ong.(2050)

Khen cho lòng chẳng thẹn lòng;

Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?

Ca ca sao chẳng chịu đi?

Về cho tẩu tẩu để khi xách giày.

Mẹ con đứng thẹn thuồng thay;

Vội vàng cúi lại chơn rày trở ra.

Trở về chưa kịp tới nhà;

Thấy hai ông cọp nhẩy ra đón đàng.

Thảy đều bắt mẹ con nàng;

Ðem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng.(2060)

Bốn bề lấp đá bịt bùng;

Mẹ con than khóc không trông ra rồi.

Trời kia quả báo mấy hồi;

Tiếc công son điểm phấn giồi bấy lâu!

Làm người cho biết ngãi sâu;

Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.

Ðừng đừng theo thói mẹ con;

Thác đà mất kiếp xấu còn bia danh.

Trạng nguyên về tới Ðông thành;

Lục ông trước đã xây dinh ở làng.(2070)

Bày ra sáu lễ sẵn sàng;

Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.

Sui gia đã xứng sui gia;

Rày mừng hai họ một nhà thành thân;

Trăm năm biết mấy tinh thần?

Sanh con sau nối gót lân đời đời.(2076)

……………………. Chung ………………………..

Viết một bình luận

error: Content is protected !!