Dẹp rồi lũ kiến chòm ong;
Hỏi: ai than khóc ở trong xe nầy?
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay;
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ. (140)
Trong xe chật hẹp khôn phô;
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng”.
Vân Tiên nghe nói động lòng;
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra;
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thư con gái nhà ai;
Ði đâu nên nỗi (nổi) mang tai bất kì?
Chẳng hay tên họ là chi;
Khuê môn phận gái việc gì đến đây? (150)
Trước sau chưa hãn (hản) dạ nầy;
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?”
Thưa rằng: “ Tôi Kiều Nguyệt Nga;
Con nầy tì tất tên là Kim (Kiêm) Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên;
Cha làm tri phủ ngồi miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thư về;
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha;
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành. (160)
Chẳng qua là sự bất thành;
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy;
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi;
Đặng cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi liễu yếu đào thơ;
Giữa đường lâm phải bụi nhơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần;
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng. (170)
Gặp đây đương lúc giữa đàng;
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm (gẩm) câu báo đức thù công;
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”
Vân Tiên nghe nói liền cười.
Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn;
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi;
Người đời dường ấy cũng phi anh hùng. (180)
Ðó đà biết chữ thỉ chung;
Lựa là đây phải theo cùng làm chi?
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi;
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường;
Chẳng qua quân tử quê hương nơi nào?”
Phút nghe lời nói thanh thao;
Vân Tiên há nỡ lòng nào phui pha.
“Ðông Thành vốn thiệt quê ta;
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên.” (190)
Nguyệt Nga vốn đứng thuyền quyên;
Tai nghe lời nói tay liền trao trâm.
Thưa rằng: “ Nay gặp tri âm;
Xin đưa một vật để cầm làm tin.”
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn;
Nguyệt Nga liếc (liết) thấy càng thìn nết na:
“Vật chi một chút gọi là;
Thiếp thưa chưa dứt, chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ;
Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành?” (200)
Vân Tiên khó nỗi làm thinh;
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây.
Than rằng: “ Đó khéo trêu đây;
Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.”
Đương khi gặp gỡ giữa đàng;
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng ngãi (ngải) khinh tài;
Nào ai chịu lấy của ai làm gì?
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi;
Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng. (210)
Ai dè đấng mặt anh hùng;
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng với trâm.
Riêng than: Trâm hỡi là trâm;
Đã vô duyên bấy ai cầm mà mơ?
“Ðưa trâm chàng đã làm ngơ;
Thiếp xin làm một bài thơ giã từ.”
Vân Tiên ngó lại rằng ừ;
“Làm thơ cho kíp bấy chừ chớ lâu.”
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu;
Xuống tay liền tả tám câu năm vần. (220)
“Thơ rồi nầy thiếp xin dâng’
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào.”
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào;
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Ðã mau mà lại thêm hay;
Chẳng phen Tạ Nữ cũng tày Từ phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kì;
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai;
Vân Tiên họa lại một bài trao ra. (230)
Xem thơ biết ý gần xa;
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai.
Có câu xúc cảnh tình hoài;
Ðường xa vọi vọi, dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời;
Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.